Nước nào cũng có kiểm duyệt, không ai lại cho phép nền truyền thông tuyên truyền c.h.ố.n.g lại chính thể chế của mình cả.
Quyền tự do ngôn luận, quyền công dân ở Việt Nam luôn được đảm bảo. Không có thứ tự do nào có thể vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp, tồn tại bên ngoài vòng pháp luật… để mặc sức chống đối chính quyền, thể chế của một quốc gia. Nếu có, đó chính là tư tưởng t.h.ù đ.ị.c.h, p.h.ả.n đ.ộ.n.g!
Mới đây, Phạm Đoan Trang đã có bài viết “Nhà xuất bản Tự Do bị trấn áp vì muốn khai dân trí và nói sự thật” đăng trên BBC khiến cho dư luận không khỏi cảm thấy “nhức óc”, mỉa mai.
Bài viết có đoạn: “Trong mắt công an, chúng tôi không được coi là con người nữa rồi. Tức là cách cư xử của họ như với thú vật ấy. Thế nên đừng nói chuyện quyền công dân ở đây, đừng nói chuyện luật pháp, giấy mời, đối thoại ở đây”.
Thực chất, dưới con mắt của những người Việt Nam chân chính, Phạm Đoan Trang là một đối tượng phản động hơn là một nhà báo. Bởi trong nhiều bài viết, nhiều cuốn sách như: “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”… (đều xuất bản chui), Phạm Đoan Trang xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam, kích động những người nhẹ dạ cả tin tham gia b.i.ể.u t.ì.n.h, c.h.ố.ng phá chính quyền, nhà nước, làm mất an ninh trật tự, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định c.h.í.n.h t.r.ị ở Việt Nam.
Trong phát ngôn cũng như hoạt động của mình, Phạm Đoan Trang bất chấp đạo lý, luôn thể hiện cái gọi là tinh thần “dấn thân”, đã liên kết với một số blogger chống phá dưới cái trướng “dân chủ”, “xã hội dân sự”, hô hào mang lại “tự do, dân chủ, nhân quyền” cho Việt Nam. Có thể điểm tên các đối tượng nổi bật trong giới “dân chủ” như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Hữu Vinh, Trương Duy Nhất…
Ngoài ra, đối tượng còn liên hệ với nhiều tổ chức như Phóng viên không biên giới (RSF); Ủy ban nhân quyền quốc tế để đối thoại, thảo luận trước các báo cáo định kỳ phổ quát liên quan đến tình hình dân chủ, nhân quyền Việt Nam; Trả lời phỏng vấn các cơ quan truyền thông, mạng hải ngoại vu cáo thực tiễn vấn đề quyền con người.
Đáng chú ý, từ thông tin thiếu xác thực của các đối tượng “dân chủ” như Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Hữu Vinh… hay Phạm Đoan Trang nói trên. RSF đã rất nhiều lần đưa ra các thông tin sai lệch, xuyên tạc trắng trợn tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí của Việt Nam. Bên cạnh việc thường xuyên đưa Việt Nam vào nhóm “chót bảng” trong bảng xếp hạng tự do báo chí, tổ chức này còn liên tục cổ xuý, tung hô các đối tượng p.h.ả.n đ.ộ.n.g, cơ hội c.h.í.nh t.r.ị có hành vi ch.ống phá Việt Nam.
Nói thẳng ra, các nhà “dân chủ” không trưng ra được cái gì cụ thể để chứng minh, mà chỉ xoen xoét đi bêu rếu những điều không ai chứng. Chính cái sự “tự do quá trớn” đó khiến cho họ luôn nói và làm những điều trái với pháp luật, đi ngược lại quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Tự do báo chí, ngôn luận, quyền công dân ở các quốc gia trên thế giới đều được quy định nhằm mục đích ngăn chặn việc lạm dụng tự do báo chí xâm phạm đến quyền tự do của cá nhân khác, chống chính quyền, lật đổ chính quyền… và được bảo đảm bằng các quy định pháp luật. Nhiều tuyên ngôn của các tổ chức lớn như Liên hợp quốc, hiến pháp của nhiều quốc gia, như Mỹ, Anh, Pháp đã quy định rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.
Trong bản “Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789” – tự do báo chí được trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11).
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại khoản 2, Điều 19 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ”. Khoản 3, Điều 19 cũng quy định “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt.
Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a- Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác. b- Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Khoản 1, Điều 19, Công ước nêu: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp”. Khoản 2, Điều 22 nêu: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác”.
Ở Anh, tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với mục đích làm mất tín nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, Chính phủ, Hiến pháp, bất cứ viện nào hoặc hệ thống tòa án, kích động sự bất bình hay sự căm phẫn giữa các công dân của Nữ hoàng, sự hận thù giữa các giai cấp của các công dân đó đều bị coi là vi phạm pháp luật.
Ở Mỹ, quốc gia luôn tự cho là thực hiện đầy đủ nhất khẩu hiệu tự do báo chí, cũng quy định khi báo chí vu khống, có lời lẽ thô bỉ, có khuynh hướng gây nguy hại cho thể chế dân tộc và quốc gia sẽ bị tòa án tối cao truy tố.
Thực tế cho thấy Việt Nam đang thực hiện nghiêm túc các cam kết của mình về vấn đề tự do báo chí. Đời sống báo chí của Việt Nam đang phát triển một cách sôi nổi, đảm bảo mọi công dân đều có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách thuận lợi nhất. Về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận nói chung và tự do báo chí nói riêng được đặc biệt quan tâm và được quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật liên quan, cụ thể:
Tại Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Tại Luật Báo chí hiện hành, chúng ta cũng đã có hẳn một chương với 4 điều (từ Điều 10 đến Điều 13, Chương II) quy định về quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân.
Việt Nam phát triển đầy đủ các loại hình báo chí từ báo in, báo nói, báo truyền hình, báo điện tử. Cùng với các hãng thông tấn báo chí trong nước, các hãng truyền thông báo chí nước ngoài cũng đang hoạt động tích cực tại Việt Nam. Với sự phát triển nhanh chóng của Internet, mạng xã hội, các hoạt động báo chí ngày càng trở nên đa dạng. Thông qua báo chí, người dân được nói lên tiếng nói, nguyện vọng của bản thân mình, đồng thời thực hiện quyền lực chính trị của bản thân.
Điều này minh chứng, ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa “ý Đảng, lòng dân”, tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền của người dân.
Điều đó cũng có nghĩa, quyền tự do ngôn luận, quyền công dân ở Việt Nam luôn được đảm bảo. Không có cái thứ tự do nào có thể vượt ra ngoài khuôn khổ luật pháp, tồn tại bên ngoài vòng pháp luật…để mặc sức chống đối chính quyền, thể chế của một quốc gia.
Nếu có, đó chính là tư tưởng t.h.ù đ.ị.c.h, p.h.ả.n đ.ộ.n.g!
Sông Trà
ConversionConversion EmoticonEmoticon