Trước yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân và chủ trưong đon giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến; thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an được giao trọng trách xây dựng dự án Luật Cư trú (sửa đổi); dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD. Đây là 03 dự án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử, góp phần cải cách thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phục vụ hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
I.
Dự ÁN
LUẬT CƯ TRÚ (SỬA ĐỔI)
1.
Sự cần
thiết xây dựng, ban hành Luật
Trước yêu cầu
nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới, yêu cầu quản lý nhà
nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công
dân và chủ trương đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấv tờ công dân liên quan
đến quản lý dân cư, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến đã đặt ra yêu cầu
phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cư trú; trong đó việc xây dựng, ban hành
Luật Cư trú (sửa đổi) là cần thiết với những lý do cụ thể sau đây:
a)
Bảo đảm
tổt hơn nữa qưyền tự do cư trú của công dân
Hiến pháp năm
2013 đã quy định quyền tự do cư trú, đi lại, giao dịch, quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở, về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình... là quyền con
người, quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn ừọng và bảo vệ. Quản lý cư
trú có liên quan trực tiếp đến những quyền này; vì vậy, sửa đổi Luật Cư trú là
để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 vê quyền con người, quyền công
dân liên quan đến cư trú theo hướng đơn giản hóa và công khai thủ tục hành
chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư; quy định cụ thể điều
kiện, thủ tục đăng ký cư trú theo hướng công khai, minh bạch; kiên quyết xoá bỏ
cơ chế xin cho, nặng về hành chính, quản lý kém hiệu quả, lãng phí, phiền hà,
tiêu cực gây bức xúc trong Nhân dân; đồng thời, khắc phục được những sơ hở, bất
cập trong công tác quản lý, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về cư trú
trước yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước trong tình hình mới.
b)
Góp
phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lỷ nhà nước về an ninh, trật tự
trong tình hình mới
Tình hình an
ninh chính trị thế giới, khu vực có những diễn biến đa dạng, phức tạp, khó
lường, xung đột vũ trang, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố quốc tế tiêp tục gia
tăng. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chủ nghĩa dân tộc thực dung, cưc
đoan, bảo hô mậu dich ngày càng lan rộng. Thế giói đứng trước nhiều nguy cơ,
thách thức lớn về an ninh phi truyền thống, nhất là tội phạm xuyên quốc gia, an
ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, khủng hoảng di cư, biến đổi
khí hậu, dịch bệnh... Ở trong nước, các thế lực thù địch vẫn gây sức ép với
Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền, công khai tiếp xúc, hô trợ số đối tượng
chống đối, thực hiện các hoạt động thâm nhập, tác động chuyển hóa nội bộ, tuvên
truyền chống Việt Nam, kích động gây rối, gây bạo loạn nhằm gây mất ổn định
chính trị-xã hội ở nước ta. Tình hình an ninh, chinh trị trên các
địa bàn trọng điểm Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức
tạp.
Bên cạnh đó, tình hình tội phạm còn diễn
biến phức tạp, tính chất tinh vi, táo bạo, sử dụng vũ khí nóng gây ra nhiều vụ
án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Các loại tội phạm có tổ chức hoạt động
theo kiểu xã hội đen, giết người, cờ bạc, buôn lậu, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, mua bán phụ nữ, trẻ em, chống người thi hành công vụ, đâm thuê, chém
mướn, bảo kê, buôn bán ma túy, bắt cóc tống tiền, tội phạm có yếu tố nước
ngoài, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện... vẫn còn đang xảy ra, hoạt động với tính chất côn đồ, hung hãn gây ra những
hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp tới tính mạng, sức khỏe người dân, gây
lo lắng trong Nhân dân.
Tại Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày
27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và
tội phạm đã đề ra nhiệm vụ: Thực hiện tốt công tác phòng ngừa
xã hội, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm;
tạo chuyến biến rõ rệt về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
Do đó, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được Quốc hội giao thì cần phải tăng
cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về cư trú, góp phần tích cực, có hiệu
quả trong việc phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp
luật.
Trước yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ bảo
vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới, Đảng ủy
Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/ĐUCA ngày 08/01/2018 về nhiệm
vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng
Công an nhân dân năm 2018 và những năm tiếp theo; theo đó, Nghị quyêt đã đặt ra
nhiệm vụ: Tăng cường quản lý cư trú, quản lỷ dân cư, góp phần tăng cường hiệu
lực, hiệu quả quản lỷ nhà nước về an ninh, trật tự trong tình hình mới.
c) Thực hiện
việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý
dân cư
Hiện nay, các quy định của Luật Cư trú
về điều kiện, thủ tục đăng ký cư trú đã tương đôi cụ thê, rõ ràng, tạo cơ sở
pháp lý cho công dân thực hiện quyên tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú; tuy
nhiên về trình tự, thủ tục đăng ký cư trú còn mang tính thủ công, rườm rà, chưa đáp ứng
yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị
quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017 về đơn giản hoá thủ tục hành chính, giây tờ
công dân liên quan đên quản lý dân cư, trong đó có phương án bãi bỏ hình thức
quản lý dân cư băng Sô Hộ khẩu, Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý
theo số định danh cá nhân cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư thì việc thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký cư trú cho công dân cũng cần có
sự điều chỉnh cho phù họp với hình thức quản lý mới cũng như yêu cầu quản lý
dân cư trong tình hình mới; qua đó, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người
dân khi thực hiện thủ tục đăng ký cư trú cũng như tạo ra sự chuyển biến căn bản
trong quan hệ giải quyết thủ tục đăng ký cư trú giữa cơ quan nhà nước và người
dân.
Bên cạnh đó,
việc tổ chức triển khai dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng như: Đã hoàn thiện khung pháp lý cho việc triển khai
dự án; đã xây dựng hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh; triển khai thu thập thông tin dân cư và tổ chức cấp hơn
18 triệu số định danh cá nhân cho công dân.
Tại Khoản 1
Mục I Phần B Phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân ban
hành kèm theo Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017 của Chính phủ về đơn giản
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư đã giao
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan sửa đổi, bổ sung
Luật Cư trú năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cư trú năm 2013 để thực hiện
nội dung đơn giản hóa thủ tục hành chính nêu tại Mục VIII Phần A Phương án đơn
giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; cụ thể:
-
Bãi bỏ
hình thức quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng “Sổ hộ khẩu” và thay thế bằng
hình thức quản lý thông qua mã số định danh cá nhân. Từ đó, bãi bỏ kết quả giải
quyết thủ tục là “Sổ hộ khẩu” và thay thế bằng hĩnh thức cập nhật thông tin
trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư;
-
Bãi bỏ
hình thức quản lý dân cư tạm trú bằng “Sổ tạm trú” và thay thế bằng hình thức
quản lý thông qua mã số định đanh cá nhân. Từ đó, bãi bỏ kết quả giải quyết thủ
tục là “Sổ tạm trú” và thay thế bằng hình thức cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ
liệu quôc gia vê dân cư;
-
Bãi bỏ
các nhóm thủ tục: Tách sổ hộ khẩu; cấp đổi sổ hộ khẩu; cấp lại sổ hộ khẩu; điều
chỉnh những thay đổi trong sổ hộ khẩu; xóa đăng ký thường trú; xác nhận việc
trước đây đã đăng ký thường trú; hủy bỏ kêt quả đăng ký thường trú trái pháp
luật; cấp giấy chuyển hộ khẩu; cấp đổi sổ tạm trú; cấp lại sổ tạm trú; điều
chỉnh những thay đổi trong sô tạm trú; gia hạn tạm trú; hủy bỏ đăng ký tạm trú
trái pháp luật.
d) Đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong công tác quản lý
cư trú
Trong điều
kiện đất nước ta đang đẩv mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội
nhập quốc tế, vêu câu đặt ra là phải hiện đại hoá công tác quản lý cư trú theo
hướng ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phù hợp với
xu hướng của các nước trên thê giới. Trong khi đó, khoa học, công nghệ trong
đăng ký, quản lý cư trú ở nước ta còn lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày
càng tăng của công dân, chưa bảo đảm phục vụ tốt yêu cầu quản lý dân cư và hội
nhập quốc tế; mặt khác, dữ liệu đăng ký, quản lý cư trú hiện nay chủ yếu được
lưu trữ thủ công; việc cấp, quản lý, sử dụng giấy tờ về đăng ký, quản lý cư trú
tuy có nhiều cố gắng cải tiến, sắp xếp hợp lý hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được
yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; do đó, cần quy định
việc đăng ký, quản lý cư trú theo hướng ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến
để vừa quản lý chặt chẽ dân cư, vừa góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính,
giấy tờ công dân và từng bước thực hiện Chính phủ điện tử.
Để đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ
tiên tiến trong công tác quản lý cư trú, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành
Nghị quyết số 08-NQ/ĐƯCA ngày 01/8/2017 về tiếp tục hoàn thiện pháp luật về an
ninh, trật tự đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết đặt ra yêu cầu:
Sửa đổi, bổ sung Luật Cư trú để đấy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng khoa học,
công nghệ trong quản lý cư trú. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định
số 366/QĐ-TTg ngày 11/3/2020 về việc phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự
án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; trong đó, xác định thời gian thực hiện dự
án là đến năm 2021. Bộ Công an có Kế hoạch số 82/KH-BCA-C06 ngày 04/3/2020 về
triển khai thực hiện dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã xác định việc
hoàn thành, đưa vào vận hành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trước tháng
6/2021.
Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc
xây dựng, ban hành Luật Cư trú (sửa đổi) là cần thiết.
-
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú
bảo đảm phù họp với chủ trương cải cách hành chính và tiến trình hội nhập, mở rộng
giao lưu, họp tác quốc tế trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay.
-
Thực hiện chủ trương hiện đại hóa và
đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến công tác quản
lý dân cư; bảo đảm tốt hơn nữa tính công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi
hơn nữa cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú và tăng cường hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước về cư trú.
-
Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ
thống pháp luật quy định về các giấy tờ của công dân; đáp ứng yêu cầu của công
tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
3.
Quan
điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật
-
Bảo đảm phù hợp với quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quản lý cư trú và chủ trương đơn giản
hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư.
-
Tạo khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho công
dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở
về Việt Nam sinh sống, làm ăn; trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản, thuận tiện,
kịp thời, công khai, minh bạch, không gây phiền hà, tiêu cực; đồng thời, bảo đảm
cho công tác đăng ký, quản lý cư trú có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và những
năm tiếp theo.
-
Đổi
mới hình thức quản lý cư trú trên cơ sở ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa
học, công nghệ tiên tiến trong quản lý cư trú, bảo đảm tính khoa học, công
khai, minh bạch và thuận tiện cho đăng ký, quản lý cư trú.
-
Tổng
kết đầy đủ, toàn diện thực tiễn thi hành pháp luật về cư trú để kế thừa các quy
định của Luật Cư trú còn phù họp và đang phát huy tác dụng trong công tác đăng
ký, quản lý cư trú; đồng thời, tiêp thu có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm
quản lý cư trú của nước ngoài để vận dụng phù họp với đặc điểm, điều kiện của
Việt Nam.
-
Quy
định cụ thể các nội dung liên quan đến cư trú, hạn chế đến mức thấp nhất việc phải
ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật để các cơ quan, tổ
chức, cá nhân chấp hành luật nghiêm chỉnh, kịp thời, thống nhất.
-
Điều
23 Hiến Pháp năm 2013 quy định: Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở
trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật quy định;
-
Ngày
25/10/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban
hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới;
trong đó, nêu lên nhiệm vụ, giải pháp: Chủ động nắm chắc tình hình, đánh giá và
dự báo đúng các tình huống phức tạp có thể xảy ra. Phát hiện kịp thời các âm
mưu, hành động của các thế lực thù địch để chủ động có phương án ứng phó, ngăn
chặn, đẩy lùi từ xa và tích cực chuẩn bị lực lượng bảo đảm giành thắng lợi khi
tình huống xấu xảy ra, không để bị động bất ngờ;
-
Nghị
quyết số 36/NQ-TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc
tế đề ra giải pháp: Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quốc phòng, an
ninh;
-
Nghị
quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đề
ra mục tiêu đến năm 2030 toàn bộ dân số Việt Nam được đăng ký, quản lý trong hệ
thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc;
-
Chỉ
thị số 46-CT/TW ngày 22/6/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới đề ra nhiệm
vụ: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước vê an ninh, trật tự, nhât là quản lý
xuất, nhập cảnh, quản lý cư trú...;
-
Báo
cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 05 năm (2011-2015)
và phươne hướns, nhiệm vụ phát triển kinh tê - xã hội 05 năm (2015-2020) trình
Đại hội đại biêu toàn quốc lân thứ xn của Đảng nêu rõ: Có cơ chế đặc thù để
triển khai những dự án khoa học, công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh;
-
Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017
của Chính phủ về phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân
liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ
Công an xác định đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan tới công tác đăng
ký, quản lý cư trú;
-
Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 08/6/2013
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án tổng thể đơn giản hoá thủ tục hành
chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai
đoạn 2013 - 2020 (đã được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 524/QĐ-TTg ngày
19/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ);
-
Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 13/3/2017 của
Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường phối hợp triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư yêu cầu Bộ Công an: Chỉ đạo Công an các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương khẩn trương triển khai và hoàn thành thu thập thông tin về dân
cư; chuẩn hóa dữ liệu sẵn có để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đảm
bảo đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin cơ bản của công dân theo quy định tại
khoản 1 Điêu 9 Luật căn cước công dân và Điều 4, Điều 5 Nghị định số
137/2015/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Căn cước công dân;
-
Nghị quyết số 08-NQ/ĐUCA ngày 01/8/2017
của Đảng ủy Công an Trung ương vê tiêp tục hoàn thiện pháp luật vê an ninh, trật
tự đên năm 2020, định hướng đên năm 2030 xác định: Sửa đôi, bổ sung Luật Cư trú
để đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý cư
trú;
-
Nghị quyết số 10-NQ/ĐUCA ngày 08/01/2018
của Đảng ủy Công an Trung ương về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật
tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân năm 2018 và những năm
tiếp theo đề ra nhiệm vụ, giải pháp: Tăng cường quản lý cư trú, quản lý dân cư
góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự.
5.
Về những
nội dung mói trong dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi)
Sau kỳ họp thứ 9 của Quốc hội khoá XIV
vừa qua, dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) được chỉnh lý gồm 07 chương, 39 điều và
có những nội dung mới, sửa đổi, bổ sung so với Luật Cư trú năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2013) như sau:
(1)
Dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) quy định
thay thế việc quản lý cư trú (thường trú, tạm trú) từ phương thức thủ công băng
số giaays sang phương thức quản lý hiện đại bằng công nghệ thông tin; cụ thể là
quản lý cư trú bằng việc sử dụng mã số định danh cá nhân để truy cập, cập nhật,
điều chỉnh trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Thông tin về nơi thường trú,
nơi tạm trú của mỗi công dân đều là trường thông tin dữ liệu số được cập nhật,
điều chính trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; cơ quan, tổ chức và công dân
có thể khai thác, sử dụng đế phục vụ giao dịch dân sự, giải quyết các thủ tục
hành chính...
Dự thảo Luật đã bỏ các quy định về: sổ
hộ khẩu, sổ hộ khẩu cấp cho hộ gia dinh, cấp cho cá nhân, giấy chuyển hộ khẩu,
các hành vi bị nghiêm cấm (thuê, cho thuê, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung sổ hộ khẩu, sổ tạm
trú); quyền được cấp, cấp lại, đổi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú...
Việc đổi mới
phương thức quản lý theo hướng này giúp công dân không cần mang theo các loại
giấy tờ có chứa thông tin cá nhân để thể hiện trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư, cũng như không phải sao y chứng thực các loại giấy tờ này khi thực hiện
các thủ tục hành chính hoặc tham gia giao dịch dân sự mà chỉ cần mang theo thẻ
Căn cước công dân hoặc cung cấp mã số định danh cá nhân cho cơ quan chức năng
để thực hiện.
(2)
Sửa
đổi, bổ sung quy định về trình tự, thủ tục đăng ký cư trú theo hướng đơn giản
hoá thủ tục hành chính
Việc thực
hiện quản lý dân cư thông qua phương thức mới bằng mã số định danh cá nhân trên
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú sẽ dẫn đến việc bãi
bỏ một phần hoặc toàn bộ 13 nhóm thủ tục hành chính liên quan đến đăng ký, quản
lý cư trú, tạm trú của công dân; do vậy, dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) đã bỏ
các thủ tục như: cấp đổi, cấp lại sổ hộ khẩu; cấp giấy chuyển hộ khẩu; cấp đổi,
cấp lại sổ tạm trú... đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số thủ tục như tách sổ hộ
khẩu (được xác định theo hướng đây là việc tách hộ gia đình), huỷ bỏ kết quả
đăng ký thường trú, tạm trú trái pháp luật.
Bên cạnh đó,
do sử dụng phương thức quản lý hiện đại này nên thời hạn giải quyêt đăng ký
thường trú, đăng ký tạm trú cho công dân cũng đơn giản, rút ngắn về cả thủ tục
và thời gian. Nếu như hiện nay thời gian giải quyết đăng ký thường trú là 15
ngày thì theo dự thảo Luật sẽ tối đa là 07 ngày.
(3)
Dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ các quy đinh riêng về điều kiện đăng
ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương (tức là, không có quy định
riêng về điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc Trung ương; việc
đăng ký thường trú tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là như nhau, không
có sự phân biệt và được áp dụng chưng, thống nhất trên toàn quốc). Quy định này
nhằm tạo sự bình đẳng trong quản lý cư trú đối với mọi công dân; bảo đảm quyền
tự do cư trú của công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và bảo đảm tốt
hơn quyền và lợi ích họp pháp của công dân đang sinh sống trên địa bàn thành
phố trực thuộc Trung ương nhưng chưa được đăng ký thường trú mặc dù có chỗ ở
hợp pháp.
(4)
Ngoài
các trường họp bị xoá đăng ký thường trú như hiện nay, xuất phát từ thực tiễn
và để nâng cao hiệu quả quản lý về cư trú, nắm đúng thực tế số hộ, số người
thường trú trên địa bàn, phục vụ công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, hoạch định, thực hiện chính sách an sinh xã hội và bảo vệ quyền, lợi ích
chính đáng của người có liên quan, dự thảo Luật đã bổ sung một số trường họp xo
á đăng ký thường trú:
- Người vắng
mặt tại nơi thường trú trên 12 tháng liên tục trừ trường họp đăng ký tạm trú
tại chỗ ở khác, đã khai báo tạm vắng hoặc xuất cảnh ra nước ngoài nhưng không
phải để định cư.
-
Người đã được cơ quan có thẩm quyền cho
thôi quốc tịch Việt Nam; bị tước, bị huỷ bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt
Nam.
-
Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở
là do được thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã hết thời hạn thuê, không được mượn, không
được ở nhờ nữa.
-
Người đăng ký thường trú tại chỗ ở đã bị
phá dỡ, kê biên, tịch thu và người đã bán nhà, tàu, thuyền, phương tiện khác là
chỗ ở dùng để đăng ký thường trú bị xoá đăng ký thường trú sau 12 tháng kể từ
ngày bán nhà, tàu, thuyền, phương tiện đó; trừ trường họp được chủ sở hữu tài sản
mới đồng ý cho tiếp tục đăng ký thường trú.
(5) Bổ sung quy định để quản lý đối với
trường họp công dân không đủ điều kiện đăng ký thườns trú, tạm trú để đảm bảo
quản lý tốt hơn đối với nhóm người này (đây là những người chưa đăng ký thường
trú, tạm trú ở đâu như người di cư, sống lang thang, không có giấy tờ tuỳ thân,
không có chỗ ở họp pháp hoặc có chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng không được chủ
hộ đồng ý cho đăng ký thường trú, tạm trú...). Việc bổ sung quy định này nhằm bảo
vệ quyền lợi chính đáng cho người dân, giúp cơ quan nhà nước nắm được tình hình
của những người này và hỗ trợ họ.
6.
Một số
nội dung của dự thảo Luật còn có ý kiến
khác nhau
Dự án Luật Cư trú (sửa đổi) đã được Bộ
Công an phối họp với Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội nghiên cứu thống nhất hướng
tiếp thu, giải trình hầu hết ý kiến của Đại biểu Quốc hội; đến nay, còn một số
vấn đề còn có ý kiến khác nhau, cụ thể như sau:
Một là, về
điều kiện đăng kỷ thường trú (Điều 21)
Nội dung này, Bộ Công an thống nhất
theo đa số ý kiến của đại biểu là quy định điều kiện đối với trường họp thuê,
mượn, ở nhờ cần bảo đảm yêu cầu về diện tích bình quân tối thiểu làm điều kiện
để dăng ký thường trú tại chỗ ở họp pháp nhằm bảo đảm điều kiện sống cần thiết
cho người dân, phù họp với yêu cầu và tinh hình thực tiễn của từng địa phương
và giảm áp lực cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội trên địa bàn;
tuy nhiên, cần quy định mức tối thiểu là không dưới 08m2 sàn/người để bảo đảm
điều kiện sống và phù họp với điều kiện của đa sổ tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (theo Quyết định so 2127/QĐ-TTg ngày 30/11/2011 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quoc gia đến năm 2020 và tầm
nhìn đến năm 2030 thì mục tiêu đến năm 2020 diện tích nhà ở bình quân toàn quốc
đạt khoảng 25m2 sàn/người, trong đó tại đô thị đạt 29m2 sàn/người và tại nông thôn
đạt 22m2 sàn/người; phân đâu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở tôi thiêu 08m2
sàn/người. Đền năm 2030, phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân toàn
quốc đạt khoảng 30m2 sàn/người, diện tích nhà ở toi thiểu đạt 12m2 sàn/ngườỉ).
Các nội dung còn lại là giữ nguyên như
dự thảo Luật do Chính phủ trình.
Bên cạnh đó, một số đại biểu Quốc hội đề
nuhị quy định thêm tiêu chí về thời gian tạm trú nhất định tại địa bàn là điều
kiện đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ. Tuy nhiên, Bộ Công an đề nghị không nên
quy định tiêu chí này vì đây là quy định để hạn chế công dân đang sinh sống tại
các thành phổ trực thuộc Trung ưomg được đăng ký thường trú vào các đô thị này
của Luật Cư trú hiện hành; quy định này tạo ra sự phân biệt đối xử, bất bình đẳng
giữa các công dân. Do vậy, không nên tiếp tục giữ quy định này và mở rộne phạm
vi áp dụng đối với tất cả các tỉnh trong cả nước.
Hai là, về
xoá đăng kỷ thường trú (Điều 25) và xoá đăng kỷ tạm trú (Điều 30)
Nội dung này
Bộ Công an đề nghị giữ nguyên như dự thảo Luật do Chính phủ trình như ý kiến
của đa số đại biểu Quốc hội. Việc xoá đăng ký đối với trường hợp “công dân vắng
mặt tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên...” là để nâng cao trách nhiệm của
công dân ừong việc chấp hành pháp luật về cư trú; giúp chính quyền địa phương
các cấp có thể hoạch định chính sách phát triển kinh tế được chính xác, sát với
nhu cầu của người dân trong địa bàn quản lý, bố trí nguồn lực họp lý cho các
đối tượng thụ hưởng họp pháp đang thực té sinh sống hên địa bàn.
Việc xoá đăng
ký thường trứ trong trường hợp này không
có nghĩa là xoá toàn bộ thông tin của công dân trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú mà tất cả thông tin cửa công dân trong 02 cơ sở
dữ liệu này vẫn được lưu trữ, quản lý, khai thác, sử dụng như bình thường. Việc
xoá đăng ký thường trú của công dân còn được thể hiện trong cả hồ sơ lưu trữ của cơ quan đăng ký, quản lý cư
trú. Đối với những trường họp bị xoá sẽ thể hiện rõ cả lý do bị xoá và thời
điểm bị xoá ở trường thông tin về nơi thường trú, nơi tạm trú của công dân
trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Ba là, về
thời hạn tạm trú, gia hạn tạm trú (khoăn 10 Điều 2, Điều 28, Điều 29 dự thảo
Luật)
Điều 28, Điều
29 dự thảo Luật quy định về điều kiện đăng ký tạm trú, hồ sơ, thủ tục đăng ký
tạm trú theo hướng công dân tạm trú không có thời hạn. vấn đề này, Bộ Công an
đề nghị bổ sung vào dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) quy định về thời hạn tạm trú
và gia hạn tạm trú, bởi vì:
(1)
Đe phù
họp với đặc điểm, khái niệm trong giải thích từ ngữ về “nơi tạm trú” quy định
tại Điều 2 dự thảo Luật là nơi công dân sinh sống trong một khoảng thời gian nhất
định ngoài nơi thường
trú và đã được đăng ký tạm trú.
(2)
Để phân biệt nơi tạm trú với nơi
thường trú (là công dân
sinh sổng ổn định, lâu dài, không xác định thời hạn).
(3)
Kế thừa quy định còn phù họp với
thực tiễn của Luật Cư trú hiện hành (khoản 4 Điểu 30 Luật Cư trú hiện hành quy định So tạm
trú có thời hạn toi đa là 24 tháng, hết thời hạn tạm trú, công dân đến cơ quan
Công an nơi cấp sổ tạm trú để làm thủ tục gia hạn).
(4) Để bảo đảm chặt chẽ trong công tác
quản lý cư trú, nếu người đã đăng ký tạm trú mà không còn cư trú ở địa điểm đã
đăng ký và không làm thủ tục gia hạn tạm trú thì sẽ bị xoá đăng ký tạm trú.
Bốn là, về
thời điểm có hiệu lực của Luật và quy định chuyển tiếp (Điều 39 dự thảo Luật)
Dự thảo Luật đưa ra 02 phương án:
Phương án 1 quy định sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn tiếp tục được sử dụng
đến hết ngày 31/12/2022; Phương án 2 quy định sổ hộ khẩu, sổ tạm trú không có
giá trị sử dụng trong các giao dịch, quan hệ pháp luật được xác lập mới kể từ
ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Bộ Công an đề nghị chỉ để 01 phương
án tại dự thảo Luật (Phương án 2) là như nội dung do Chính phủ trình Quốc hội (Luật này có hiệu lực thỉ hành từ ngày
01/7/2021; sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp cho hộ gia đình, cá nhân chỉ được tiếp
tục sử dụng để giải quyết các giao dịch, giấy tờ, tài liệu được xác lập trước
ngày Luật có hiệu lực thỉ hành như quy định tại khoản 3 Điêu 42 dự thảo Luật do
Chính phủ trình, không có quy định chuyển tiếp là được sử dụng tiếp đến hết
ngày 31/12/2022).
Vấn đề này đồng chí Bộ trưởng Bộ Công
an đã có ý kiến báo cáo ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 47 ngày
10/8/2020 và đa số ủy viên ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng nhất trí với định hướng
này.
II. Dự ÁN CƠ SỞ DỮ LIỆU QUỐC GIA VÈ DẦN CƯ
Ngày 11/3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 366/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự
án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
1. Thông tin chung về dự án
-
Tên dự án: Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư.
-
Cơ quan chủ quản: Bộ Công an.
-
Chủ đầu tư: Cục Cảnh sát quản lý hành
chính về trật tự xã hội, Bộ Công an.
-
Mục tiêu của dự án: Xây dựng Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư thống nhất trên toàn quốc, tập họp thông tin cơ bản của
tất cả công dân Việt Nam được chuẩn ho á, số hoá, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ
tầng thông tin đê phục vụ quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
-
Quy mô, nội dung đầu tư: Xây dựng hệ thống
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất trên toàn quốc, được triển khai và
quản lý tập trung tại Bộ Công an, bao gồm:
+ Đầu tư hạ tầng kỹ thuật: Mua sắm,
trang bị các thiết bị phần cứng, phần mềm hệ thống, thiết bị ngoại vi, thiết bị
văn phòng, hệ thống thiêt bị đảm bảo môi trường an ninh, an toàn vận hành, bảo
mật thông tin;
+ Thuê hạ tầng truyền dẫn;
+ Xây dựng,
triển khai hệ thống phần mềm ứng dụng phục vụ công tác quản lý nhà nước và các
yêu cầu chức năng, nghiệp vụ của ngành Công an phục vụ thu thập, cập nhật thông
tin;
+ Tổ chức thu
thập, tạo lập và chuyển đổi dữ liệu dân cư và cấp số định danh cá nhân cho công
dân;
+ Đào tạo về
hạ tầng kỹ thuật, đào tạo sử dụng phần mềm ứng dụng; tuyên truyền, phổ biến
pháp luật, chính sách liên quan đến quản lý dân cư trên toàn quốc.
-
Địa
điểm đầu tư: Bộ Công an; Công an các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ưong;
Công an các quận, huyện của thành phố trực thuộc Trung ưong; Công an các huyện,
thị xã, thành phô thuộc tỉnh; Công an xã, phường, thị trấn.
-
Thời
gian thực hiện: 2018 - 2021.
2.
Sự cần
thiết của việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
Hiện nay, ở
nước ta việc quản lý dân cư mang tính đon lẻ, từng bộ, ngành quản lý, theo dõi
riêng biệt. Đe phục vụ công tác quản lý nhà nước của bộ, ngành mình, đồng thời
bảo đảm quyền và nghĩa vụ của công dân trong từng bộ, ngành, lĩnh vực, các cơ
quan quản lý nhà nước đều cấp cho công dân một số loại giây tờ nên môi công dân
có thê sở hữu nhiêu loại giấy tờ khác nhau (giấy khai sinh, chứng minh nhân
dân, sổ hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn, thẻ bảo hiểm y té, hộ chiêu, giây phép lái
xe, các loại thẻ, chứng chỉ...). Cùng với việc cấp các giấy tờ cho công dân,
việc nghiên cứu, xây dựng các cơ sở dữ liệu mới chỉ tập trung vào mục tiêu quản
lý nhà nước của từng bộ, ngành, lĩnh vực mà chưa đặt vấn đề kết nổi, chia sẻ
thông tin chung về công dân giữa các cơ sở dữ liệu nên không khăc phục được
tình trạng cục bộ, chia cắt thông tin về công dân, không thống nhât vê thông
tin cơ bản của một công dân trong các cơ sở dữ liệu. Từ việc quản lý đơn lẻ dẫn
tới gây lãng phí về kinh tế, nguồn nhân lực, khi thực hiện thủ tục hành chính
người dân phải mất thời gian đi sao, chứng thực các giấy tờ để chứng minh nhân
thân, trong khi những loại giấy tờ liên quan đều chỉ sử dụng chung nhữna thông
tin về cône dân giống nhau.
Cùng với quá
trình phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong
các mặt công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác nghiệp vụ của ngành
Công an là xu hướng không thể đảo ngược, nhiều nước trên thế giới đã có bước
tiến rất xa trong lĩnh vực này. Muốn làm được điều này, cần phải xâv dựne và
kết nối được hệ thống các cơ sở dữ liệu với nhau, trong đó cốt lõi là Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư.
Như vậy, việc
xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất trên toàn quốc để thu
thập, cập nhật được thông tin cơ bản của công dân Việt Nam nhằm phục vụ quản lý
nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân, khắc phục được các hạn
chế, bất cập nêu trên là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
thành cône Chính phủ điện tử, hướng tới nền kinh tể số.
3.
Vị
trí, vai trò của Cơ sỏ’ dữ liệu quốc gia về dân cư
(1)
Vị trí, vai trò của Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư đối với công tác quản lý nhà nước và phục vụ Nhân dân.
-
Thông qua việc tổ chức thu thập, cập nhật
các thông tin cơ bản của công dân sẽ tạo lập nên một hệ cơ sở dữ liệu về dân cư
tập trung, thống nhất ữên toàn quốc để dùng chung cho các bộ, ngành và chính
quyền các cấp nhằm cung cấp đây đủ, chính xác, kịp thời thông tin vê dân cư (sô
liệu, cơ câu, phân bô và biên động dân cư...) phục vụ công tác quản lý nhà nước,
hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.
-
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư chính
là căn cứ quan trọng để các cơ quan quản lý nhà nước nghiên cứu, đề xuất lộ
trình đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm giấy tờ công dân, khắc phục tình trạng
một người dân phải sử dụng quá nhiều giấy tờ cá nhân nhưng lại không đem lại hiệu
quả trong công tác giải quyêt thủ tục hành chính. Việc tra cứu thông tin trong
Cơ sở dữ liệu quôc gia vê dân cư khi giải quyết các thủ tục hành chính sẽ thay
thế cho việc phải xuất trinh hoặc nộp bản sao có chứng thực các giấy tờ công
dân khi thực hiện thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian xử lý, giảm chi phí và
thời gian đi lại của Nhân dân, nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân.
-
Thông tin về dân cư được thu thập, cập
nhật thường xuyên sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý dân
cư, quản lý chắc biến động dân cư, quản lý các loại đối tượng hỗ trợ công tác
tra cứu, xác minh về nhân thân của công dân, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự,
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
-
Cơ sở dữ liệu dân cư được xây dựng với
mục tiêu kết nối, chia sẻ thông tin về dân cư với các cơ sở dữ liệu chuyên
ngành của các ngành, lĩnh vực trên toàn quốc, làm tăng khả năng khai thác, cập
nhật thông tin về dân cư, hạn chế tối đa sự trùng lặp thông tin, giảm chi phí
ngân sách nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các cơ
sở dữ liệu chuyên ngành. Đồng thời, Cơ sở dữ liệu về dân cư ra đời cũng sẽ góp
phần làm giảm khối lượng hồ sơ giấy tờ đang được lưu trữ quản lý tại cơ quan
hành chính.
(2)
Ý nghĩa, vai trò trong công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm
Thông qua việc tổ chức thu thập, cập nhật
các thông tin cơ bản của công dân sẽ tạo lập nên một hệ cơ sở dữ liệu về dân cư
tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Từ hệ thống cơ sở dữ liệu
dân cư đó, sẽ giúp hỗ trợ công tác tra cứu, xác minh vê nhân thân của công dân,
góp phân đảm bảo an ninh, trật tự, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
(3)
Ý nghĩa, vai trò trong việc hoạch định,
phát triển kinh tế của Nhà nước
Từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư, các bộ, ngành có thể tra cứu các thông tin như: Di biến độnu về tình hình
dân cư, số lượng người đên độ tuôi lao động
tại các địa phương, từ đó có thể bố trí, sắp xêp các khu
kinh tê trọng diêm tại địa phương mình; số lượng trẻ dưới 14 tuôi và trên 14
tuôi đê săp xêp xây dựng các trường học...
(4)
Ý
nghĩa của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đối với việc bỏ sổ hộ khẩu theo Luật
Cư trú (sửa đổi)
Ngày
30/10/2017, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP về đơn giản hoá thủ tục
hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức
năng quản lý nhà nước của Bộ Công an. Trong đó, quy định "Bãi bỏ hình thức
quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng “Sổ hộ khẩu” và thay thế bằng hình thức
quản lý thông qua mã số định danh cá nhân”. Việc bãi bỏ hình thức quản lý dân
cư bằng số hộ khẩu là thay đổi phương thức quản lý, từ quản lý thủ công bằng sổ
hộ khẩu sang quản lý hiện đại thông qua mã số định danh cá nhân để phục vụ tốt
hơn cho người dân, phục vụ mục tiêu dùng chung trong công tác quản lý nhà nước,
cải cách thủ tục hành chính, phục vụ giao dịch của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân, hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử. Việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư nhằm tiến tới quản lý dân cư dựa trên ứng dụng khoa học kỹ thuật
thông qua mã số định danh cá nhân. Do đó, khi công dân có các giao dịch chỉ cần
có số định danh cá nhân để chứng minh nhân thân, không cần thiết xuất trình sổ
hộ khẩu.
4. Mã số định danh cá nhân được hình thành như thế
nào? Phương thức quản lý cư trú sau khi bỏ sổ hộ khẩu sang quản lý số hoá thông
qua mã định danh cá nhân
Số định danh
cá nhân được sinh ra sau khi thông tin về công dân được thu thập vào hệ thống
một cách đồng bộ, thống nhất. Số định danh cá nhân được xác lập từ Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư dùng để kết nối, cập nhật, chia sẻ, khai thác thông tin
công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành,
số định danh cá nhân do Bộ Công an thống nhất CỊUẩn lý trên toàn quốc cấp cho
công dân Việt Nam, không lặp lại ở người khác. Sô định danh cá nhân có vai trò
rất quan trọng trong việc kết nối, liên thông giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành, trong đó hệ
thống quản lý dân cư trên toàn quốc được coi là hệ thống thông tin chủ đạo kết
nối với các hệ thống thông tin chuyên ngành khác của bộ, ngành thông qua mã số
định danh cá nhân.
Việc bãi bỏ
Sổ hộ khẩu là bước đột phá trong việc quản lý dân cư, thay thế phương thức quản
lý dân cư từ thủ công sang quản lý điện tử bằng mã số định danh cá nhân xác lập
từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. số định danh cá nhân được ghi trên giấy
khai sinh và thẻ Căn cước công dân để phục vụ công dân khi thực hiện các thủ
tục hành chính.
Khi đó, quy
trình thực hiện các thủ tục hành chính về quản lý dân cư cũng sẽ được nghiên
cứu, thay đôi cho phù họp. Với việc khi Cơ sở dữ liệu quôc gia về dân cư (thực
hiện các thủ tục về đăna ký, quản lý cư trú) kết nối với Cơ sở dữ liệu căn cước
công dân (thực hiện thủ tục về cấp, quản lý Căn cước công dân, Chứna minh nhân
dân) và Cơ sở dữ liệu hộ tịch (khai sinh, khai tử, đăng ký kêt hôn...) và kết
nối đến các cơ sở dữ liệu quốc gia khác. Việc thực hiện các thủ tục hành chính
sẽ được khai thác thông qua số định danh cá nhân để chứng minh của công dân.
Theo đó, Luật Căn cước công dân tại
Khoản 3, Điều 10 cũng quy định: “Thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia ve dân cư là
căn cứ đế cơ quan, to chức kiểm tra, thong nhất thông tin về công dân. Khi công
dân đã sử dụng thẻ Căn cước công dân của mình, cơ quan, tố chức không được yêu
câu công dân xuất trình giấy tờ hoặc cung cấp thông tin đã có trong Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư”.
Sau khi dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư được hoàn thành và đưa vào khai thác, Bộ Công an sẽ chủ trì phối họp với
các bộ, ngành có liên quan đề xuất lộ trình đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy
tờ công dân thuộc lĩnh vực đăng ký, quản lý cư trú, cấp và quản lý Chứng minh
nhân dân. Chứng minh nhân dân sẽ dần được thay thế bằng Căn cước công dân. Việc
quản lý và khai thác thông tin dân cư sẽ thông qua mã số định danh cá nhân thay
thế cho việc xuất trình sổ hộ khẩu như hiện nay.
5. Tính bảo mật của thông tin công dân, hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư
Theo quy định của Luật Căn cước công
dân thì công dân có quyền được đảm bảo bí mật cá nhân, gia đình và trách nhiệm
của cơ quan quản lý phải đảm bảo an toàn, bí mật thông tin cá nhân trong Cơ sở
dữ liệu quốc gia về dân cư. Chính vì vậy, ngay từ khi triển khai, đầu tư xây dựng,
Bộ Công an đã chỉ đạo thiết kế xây dựng hạ tầng, đường truyền riêng thông suốt
từ Trung ương đến địa phương, có phương án để kết nối, chia sẻ thông tin với
các bộ, ngành liên quan. Hệ thống được trang bị bảo mật tiên tiến, nhiều lóp
như: Chia vùng phần cứng và phần mềm chuyên dụng, bảo mật đường truyền, mã hoá
dữ liệu thông tin kết họp với quản lý người dùng. Vì vậy đảm bảo thông tin của
công dân được an toàn, bảo mật tuyệt đối.
6. Quyền, nghĩa vụ của công dân trong việc thực hiện
thu thập, cập nhật thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân CU'
-
Công dân có quyền:
+ Được đảm bảo bí mật cá nhân, bí mật
gia đình trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trừ trường họp phải cung cấp thông
tin, tài liệu theo luật định.
+ Yêu cầu cơ quan quản lý Căn cước công
dân cập nhật, chỉnh sửa thông tin khi thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư và Cơ sở dữ liệu Căn cước công dân hoặc thẻ Căn cước công dân chưa có,
chưa chính xác hoặc có thay đổi theo quy định của pháp luật.
-
Công dân có nghĩa vụ:
+ Cung cấp đầy đủ, chính xác, đúng thời
hạn thông tin, tài liệu của bản thân để cập nhật vào Cơ sở dữ liệu quốc gia vê
dân cư.
Bên cạnh việc chấp hành nghiêm quyền và
nghĩa vụ của mình, công dân cần nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, tầm
quan trọng của việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Từ đó, vận động
người thân, bạn bè châp hành nghiêm, phối hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các
lực lượng chức năng thực thi
nhiệm vụ, bảo
đảm xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đúng tiến độ và đạt hiệu quả cao.
7.
Việc
chia sẻ các bộ, ngành về thông tin công dân để phục vụ công tác quản lý của bộ,
ngành
Cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư sẽ bao gồm tập họp 18 trường thông tin cơ bản của toàn bộ
công dân Việt Nam. Hệ thống Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được tích họp với
hệ thống căn cước công dân, hệ thống đăng ký khai sinh, khai tử, thay đổi, cải
chính hộ tịch của Bộ Tư pháp và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành... Đây là “chìa
khoá” để Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư trao đổi, chia sẻ hồ sơ dữ liệu gổc
của công dân với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các
cơ quan nhà nước khác khi có nhu cầu đảm bảo tính nhất quán, chính xác, kịp
thời và ừánh trùng lặp thông tin về công dân trong các cơ sở dữ liệu; cung cấp
thông tin tổng họp về công dân theo yêu cầu khai thác của Chính phủ và cung cấp
dịch vụ xác thực nhân thân theo nhu cầu của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân.
Trong dự án
Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã xây dựng các chức năng cho phép công dân
được tra cứu các thông tin của mình qua cổng dịch vụ công quốc gia. Do vậy, sẽ
tổ chức tuyên truyền, hướng dẫn công dân cách thức thực hiện việc tự tra cứu
thông tin trên cổng này.
Ngoài ra,
công dân có nhu cầu khai thác thông tin thì làm văn bản yêu cầu nêu rõ mục
đích, nội dung thông tin cần khai thác và đến Công an địa phương (cấp huyện, xã
thuộc hệ lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính), xuất trình thẻ Căn cước công
dân để cơ quan Công an kiểm tra, xác định đúng người trước khi yêu cầu tra cứu,
xác minh thông tin của mình.
III. DỰ ÁN SẢN XUẤT, CẤP VÀ QUẢN LÝ CCCD
Ngày
03/9/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1368/QĐ- TTg về việc phê
duyệt chủ trương đầu tư dự án Sản xuât, câp và quản lý CCCD.
-
Tên dự
án: Sản xuất, cấp và quản lý CCCD.
-
Cơ
quan chủ quản: Bộ Công an.
-
Chủ
đầu tư: Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Bộ Công an.
-
Mục
tiêu của dự án: Xây dựng Cơ sở dữ liệu CCCD thống nhất trên toàn quốc, thực
hiện thu nhận và quản lý dữ liệu đăng ký CCCD tự động trên cơ sở hạ tầng công
nghệ thông tin giúp lưu trữ, truy suất, chia sẻ, tìm kiếm thông tin một cách
nhanh chóng và tiện lợi nhất; nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
CCCD, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong khi thực hiện thủ tục hành
chính và các giao dịch dân sự; hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử, tạo bước
đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; góp phân phục vụ
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD sử dụng thẻ chíp điện tử thay cho
thẻ mã vạch như hiện nay.
-
Quy mô, nội dung đầu tư: Xây dựng hệ thống
CCCD thống nhất trên toàn quốc, được triển khai và quản lý tập trung tại Bộ
Công an, gồm:
+ Đầu tư phần cứng: Hệ nhận dạng sinh
trắc học, máy chủ, máy trạm, thiết bị ngoại vi, thiết bị lưu trữ, thiết bị bảo
mật;
+ Đầu tư phàn mềm: Phần mềm thương mại,
phần mềm ứng dụng;
+ Dịch vụ đào tạo, triển khai thiết lập
hạ tầng.
-
Đối tượng thụ hưởng của dự án: Lực lượng
Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội trên phạm vi cả nước.
-
Địa điểm đầu tư: Bộ Công an; Công an
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Công an các quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
-
Thời gian thực hiện: 2020 - 2022.
Dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD sẽ
được triển khai đồng bộ song song cùng dự án Cơ sở dữ liệu quốc eia về dân cư để
tận dụng tối đa các hạng mục dùng chung nhàm đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, tránh
trùng dẫm, lãng phí. Diêm nổi bật của dự án là sẽ thay đổi cách thức thu thập
vân tay và sử dụng thẻ chíp điện tử.
2. Vị trí, vai trò của dự án Sản xuất, cấp và quản lý
CCCD đối với công tác quản lý nhà nước, phục vụ Nhân dân và ý nghĩa, vai trò
trong công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng chống tội phạm
Dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD có
ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình xây dựng Chính phủ điện tử, góp phần cải
cách hành chính phục vụ Nhân dân, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà nước
về an ninh, trật tự; phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và các hoạt
động nghiệp vụ khác của lực lượng Công an nhân dân, cụ thê:
(1)
Góp phần cải cách hành chính, phục vụ
Nhân dân: Bộ Công an xây dựng hệ thống sản xuất, cấp và quản lý CCCD tập trung,
thống nhất, đồng bộ, hiện đại từ Truns ươne tới Côns an các địa phương và kết nối
với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nên các thông tin của công dân thường
xuyên được thu thập, cập nhật, khai thác, chia sẻ nên khi công dân làm thủ tục
đề nghị cấp, đổi, cấp lại thẻ CCCD rất thuận tiện, công dân có thể đén bất cứ
điểm tiếp dân nào của cơ quan Công an cũng có thể thực hiện việc cấp CCCD mà
không nhất thiết phải về nơi đăng ký thường trú. Bộ Công an đông thời triên
khai các dịch vụ công trực tuyến cấp CCCD, cấp Giấy xác nhận số CMND trực tuyến,
cấp thẻ CCCD có gắn chíp điện tử... Do đó sẽ tạo điều kiện rất thuận lợi cho
công dân và tiết kiệm thời gian, cône sức, chi phí, đồng thời khi thực hiện các
giao dịch khác cũng rất thuận tiện và nhanh chóng.
(2)
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước: Việc triển khai thành công dự án sẽ tạo dựng được cơ sở dữ liệu vê thông
tin của công dân trong toàn
quốc với độ
chính xác cao, đầy đủ và khả năng truy nguyên đồng nhất mỗi công dân được cấp
01 số thẻ CCCD cũng là số định danh cá nhân; trên thẻ CCCD được gắn chíp điện
để lưu trữ thông tin cá nhân của công dân để các Bộ, ngành đơn vị có thê khai
thác thông tin và ghi thông tin trên chíp phục vụ quản lý nhà nước.
(3)
Hiệu
quả về kinh tế và xã hội:
Việc triển
khai thành công dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD sẽ mang lại hiệu quả vê
kinh tế, xã hội rõ rệt. Công dân được đảm bảo quyền lợi về CCCD phục vụ giao
dịch cá nhân nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm chi phí, công sức đi lại; cơ
quan nhà nước sẽ được hưởng những dịch vụ công tốt nhất, được kết nối khai thác
thông tin phục vụ công tác quản lý của mình nhanh chóng, chính xác độ tin cậy
cao; các giao dịch của người dân rất thuận tiện (sử dụng chíp điện tử dư liệu
dân cư liên thông các Bộ, ngành) dân tiên tới các giao dịch trong Chính phủ
điện tử, nền kinh tế số hỗ trợ rất lớn cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
trong phát triên các hoạt động kinh tê, xã hội; minh bạch hóa các thủ tục hành
chính rút ngắn thời gian trả kết quả của các dịch vụ hành chính công.
(4)
Nâng
cao hiệu công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; các hoạt động nghiệp vụ của
lực lượng CAND.
Qua triển
khai dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD, thông tin của người dân từ đủ 14 tuôi
trở lên sẽ được thu thập, cập nhật vào cơ sở dữ liệu CCCD và trao đổi với Cơ sở
dữ liệu quốc gia về dân cư để thống nhất, quản lý. Thông tin có độ chính xác
cao, có ảnh chân dung, vân tay lăn và các thông tin cơ bản của công dân do vậy
phục vụ rất đắc lực cho công tác đấu tranh phòng, chổng tội phạm, truy nguyên
các thông tin như truy tìm tung tích nạn nhân, mất tích, chết không rõ nguyên
nhân, nhận diện khuôn mặt, đối sánh vân tay, quản lý danh sách đối tượng theo
quy định; phục vụ cơ quan điều tra thực thi các hoạt động điều tra, truy xét
theo quy định một cách nhanh chóng, chính xác.
Hệ thống được
thiết kế mở có khả năng kết nối, chia sẻ dữ liệu với các hệ thông khác của
ngành Cône an như Cơ sở dữ liệu về tội phạm, nhận diện khuôn măt hộ
chiếu truy nã, truy tim... và tạo thành mọt cơ sơ dư hẹu hen thong, thông nhất,
đay đu của Bộ" Công an góp phần xây dựng các chương trình kê hoach đe Bộ
Côns an ra được các quyệt nghị về tác chiến, đâu tranh phòng, chểne tội phạm,
tỗ chức các đợt c-ao điêm tân công trân áp tội phạm, truy nã, truy tìm, thực
hiện các biện pháp nghiệp vụ của lực lượng CAND...
3 Tiến độ, thòi gian hoàn thành các hạng mục chính của dự án
(1) Tháng 11/2020, triển khai thu nhận, cấp CCCD gắn chíp điện tử, thu nhận
vẳn. tay lăn của công dân trên toàn quôc.
(2) Tháng 12/
2020 Bộ Công an sản xuất cấp thẻ CCCD có gắn chíp điện tử trên toàn quốc.
( 3) Ngày
26/02/2021, tổ chức Lề bấm nút, công bố Hệ thông sản xuât, cấp và quản ly CCCD
và CSDL quốc gia về dân cư.
(4)
Tháng 6/2021, Bộ Công an tổ chức Hội
nghị Tổng kết Dự án và thực hiện các thủ tục quyết toán dự án theo quy định.
4.
Việc
thu nhận vân tay lăn thay cho vân tay phẳng
Việc thực hiện thu nhận vân tay lăn có
những ưu điểm, nhược điểm sau:
-
Ưu điểm: Có thể thu nhận được vùng vân
tay rộng hon kết nối với tàng thư thủ công giúp cho việc truy nguyên hiệu quả
hon vân tay phang (khi lăn đầy đủ ngón tay).
-
Nhược điểm: Công tác thu nhận hồ sơ khi
thu nhận vân tay lăn phức tạp hon vân tay phẳng; đầu tư lớn hơn; cán bộ cần có
kinh nghiệm, chuyên môn đế có thể đảm bảo năng suất thu nhận, cấp CCCD; tốc độ,
công suất tiếp nhận hồ sơ ở địa phương chậm; tăng chi phí đầu tư; cần phải đầu
tư nhiều thời gian đào tạo nhân lực và nguôn nhân lực cũng phải có chuyên môn
cao. Cân hình thành một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp lây vân tay. Do vân tay
lăn được thu nhận băng phương pháp lăn ngón tay trên mặt phang của thiết bị nên
ngón tay dễ bị trượt, dẫn đến các vân bị chồng nhau, tạo ra các khoảng đen vân
tay.
5.
Việc
thực hiện song hành và tiết kiệm khi thực hiện với dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia
về dân cư
Cơ sở dữ liệu CCCD và Cơ sở dữ liệu quốc
gia về dân cư độc lập nhau về cơ sở pháp lý; đối tượng sử dụng, đối tượng phục
vụ và mục tiêu dự án là khác nhau nhưng được lãnh đạo Bộ Công an chỉ đạo vê việc
xây dựng hệ thônệ CCCD thống nhất thành một hệ thống với hệ thống Cơ sở dữ liệu
quốc gia ve dân cư. Do đó, dự án Sản xuất, cấp và quản lý CCCD sử dụng chung với
dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư về nhiều hạng mục đầu tư đe nâng cao hiệu
quả và tiết kiệm chi phí như: Dùng chung đường truyên; thiêt bị tường lửa, định
tuyến cấp Trung ương tại Hà Nội và trung tâm dự phòng tại Tp. HCM; dùng chuns
máy trạm tại địa phương; đôi với 16 địa phương đã triên khai câp CCCD thì sử dụng
hạ tầng, máy móc, thiết bị sẵn có...
6.
Tính
ưu việt của thẻ CCCD có gắn chíp
Thẻ CCCD có gắn chíp điện tử có độ bảo
mật cao, dung lượng lưu trữ lớn, cho phép tích họp nhiều ứng dụng đi kèm như: ửng
dụng chữ ký số, ứng dụng sinh trắc học, ứng dụng mật khẩu một lần...có thể được
sử dụng và kết nối rộng rãi cho các dịch vụ công cộng và tư nhân. Đáng chú ý, khi
thẻ CCCD găn chíp điện tử có tích họp đầy đủ các thông tin, lúc đó người dân đi
giao dịch và làm các thủ tục sẽ không phải mang nhiều loại giấy tờ mà chỉ cần
dùng thẻ CCCD có gắn chíp thì sẽ thực hiện được các giao dịch. Ngoài ra, việc
tích họp chíp trên CCCD đem lại tính linh hoạt khi cần bổ sung hoặc sửa đổi
thông tin trên thẻ sau khi phát hành bởi cơ quan công an. Dữ liệu trên chíp có
thể truy cập ngay lập tức mà không bị phụ thuộc vào kết nối mạng thông qua các
thiết bị cho phép đọc thông tin trên chíp, giúp cho việc xác thực danh tính được
thực hiện ngay lập tức, hạn chế tối đa việc giả mạo danh tính.
Thẻ CCCD gắn
chíp cũng là xu thế nhiều nước trên thế giới áp dụng vì tính tiện dụng, cũng
như tạo sự thuận lợi cho công dân khi thực hiện các giao dịch dịch vụ trực
tuyên. Hiện nay, đã có tổng số 70 nước sử dụng thẻ CCCD có găn chíp, ữong đó
các nước ứng dụng điển hình như: Malaysia, Thái Lan, Campuchia, Philipin,
Brunei, Ấn Độ, Isarel, Pakistan, UAE, Bangladesh, Tây Ban Nha, Estonia, Cộng
hoà Séc, Y, Hungary, Lithuania, Ba Lan, Latvia, Thuỵ Điên, Bô Đào Nha, Mexico,
Peru, Brazil, Guatemala, Urugoay, Nigeria, Malawi, Ghana, Cameroon.
Chíp sử dụng
trên thẻ CCCD tuân thủ quy định bảo mật của thế giới và Việt Nam, ừên chíp có
thực hiện ký số do vậy khó có thể làm giả, đảm bảo độ tin cậy trong thực hiện
các giao dịch.
Chíp có khả
năng lưu trữ thông tin sinh ừắc học (như dấu vân tay) cho phép xác thực đảm bảo
chính xác con người. Qua đó, thông tin chủ thẻ được định danh một cách chính
xác, giảm thiểu mọi nguy cơ về giả mạo thẻ, đảm bảo an toàn bảo mật nhất là
trong các giao dịch tài chinh.
Khi đề xuất
sử dụng thẻ CCCD có gắn chíp điện tử, Bộ Công an đã xây dựng phương án đảm bảo
tính bảo mật thông tin được lưu trữ ừên chíp; phương án này được các đơn vị
chuyên môn đánh giá, nghiệm thu đảm bảo bảo mật trước khi đưa vào phát hành sử
dụng rộng rãi trong xã hồi.
8.
Việc
đảm bảo quyền tự do cá nhân cho công dân khi sử dung thẻ CCCD gắn chíp điện tử
Việc gắn chip
điện tử trên thẻ CCCD với mục đích là thuận tiện trong các giao dịch hành chính
của công dân cũng như phục vụ công tác quản lý nhà nước; nâng cao hiệu quả công
tác cải cách hành chính, hướng tới nền Chính phủ số, chuyển đổi số và xây dựng
Chính phủ điện tử, đây là xu hướng tất yếu trong việc phát triển xã hội hiện
nay.
Chíp được gắn
trên thẻ CCCD là để lưu trữ các thông tin của công dân ừên thẻ CCCD với mục
tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các giao dịch hành
chính, đi lại, nâng cao hiệu quả của Chính phủ điện tử, Chính phủ số; chíp gắn
trên thẻ CCCD không có chức năng định vị, theo dõi để xác định vị ữí của công
dân. Việc tích họp, sử dụng thông tin ữên chíp tuân thủ quy định của pháp luật
Việt Nam, đảm bảo an ninh, an toàn thông tin.
Ngày
03/9/2020, Dự án sản xuất, cấp và quản lý CCCD đã được Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư dự án và đang thực hiện các công việc
phục vụ cho việc cấp thẻ CCCD có gắn chíp điện tử trên phạm vi toàn quốc, dự
kiến từ tháng 11/2020. Để tránh lãng phí, góp phần tiết kiệm ngân sách Nhà
nước, giảm phiền hà cho công dân khi chuyển từ CMND và thẻ CCCD đang cấp hiện
nay sang thẻ CCCD gắn chíp trên phạm vi toàn quốc, trong thời gian này, người
dân nếu chưa cần thiết phải cấp, đổi, cấp lại CMND, CCCD thi hãy tạm dừng lại
để chờ cấp CCCD có gắn chíp; đối với những trường họp thực sự cần thiết thi
thực hiện cấp, đổi CMND, CCCD, cụ thể:
-
Những trường hợp cần thiết phải cấp, đổi
CMND, CCCD: Là những trường họp công dân chưa được cấp CMND, CCCD hoặc đã được
cấp nhưng bị hỏng, mất, hết thời hạn mà phải thực hiện các giao dịch buộc phải
có CMND, CCCD.
-
Các trường họp chưa cần thiết: Công dân
đã được cấp CMND 9 số, CMND 12 số, thẻ CCCD còn nguyên vẹn và còn thòi hạn sử dụng.
10.
về việc đổi thẻ CCCD gắn chíp điện tử
Theo quy định của Luật CCCD và pháp luật
hiện hành, công dân vẫn được sử dụng 03 loại thẻ (CMND 9 số, CMND 12 số và CCCD
mã vạch) đến khi thẻ hết giá trị sử dụng.
Tuy nhiên, để tạo điều kiện thuận lợi
cho công dân trong thực hiện các giao dịch, cải cách hành chính hướng tới thực
hiện Chính phủ điện tử, Chính phủ số, Bộ Công an khuyến khích công dân thực hiện
đôi sang sử dụng thẻ CCCD gắn chíp điện tử khi dự án Sản xuât, câp và quản lý
CCCD được triển khai.
ConversionConversion EmoticonEmoticon