Trong suốt quá trình chuyển mình từ một nền kinh tế lạc hậu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sau 36 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường luôn là sức mạnh nội sinh cho đất nước đạt được những thành tựu kinh tế vô cùng ấn tượng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước suốt hơn 03 thập kỷ qua. Tuy nhiên, các lực lượng phản động, thù địch thường dùng luận điệu “phản biện xã hội”, đấu tranh vì “dân chủ, nhân quyền”, xây dựng “xã hội dân sự”, vấn đề chủ quyền, lãnh thổ, dân tộc, tôn giáo, nhất là các hoạt động lợi dung các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet... để xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; kích động tư tưởng, thái độ thù địch; bôi nhọ hình ảnh, uy tín đất nước. Thực tế này càng đòi hỏi cần phải có cơ chế phối hợp quyết liệt, hiệu quả giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong việc nhận diện, giải thích, làm rõ, phản bác các thông tin sai lệch bảo vệ hình ảnh đất nước, nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
I. Một số nét khái quát về quyền tự do ngôn luận, tự
do Internet
1. Nhận thức chung
Khi nói về
tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet đó chính là quyền biểu đạt của từng
con người trong xã hội, thể hiện trình độ văn minh, trình độ dân chủ của xã hội.
Có thể thấy rằng, trong một xã hội mà không có tự do ngôn luận, không có tự do
báo chí thì như thiếu “dưỡng khí ô xy” và do đó nền dân chủ không thể nuôi dưỡng,
không được thể hiện.
Đến giữa
thế kỷ XX, với kết quả của cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới cùng với những tiến bộ văn hóa, văn minh nhân
loại, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận đã khẳng định và trở thành một
giá trị chuẩn mực quốc tế. Điều 19, Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của
Liên hợp quốc được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua và công bố theo Nghị
quyết số 217, ngày 10/12/1948 nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận
và bày tỏ quan điểm; kể cả tự do bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự
can thiệp nào, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận, truyền bá thông tin và ý kiến
bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới”.
Ngày nay,
quyền tự do báo chí, tư do ngôn luận không đơn thuần chỉ là quyền tự do in ấn,
xuất bản các sản phẩm báo chí mà nó đã được mở rộng một cách toàn diện, bao gồm:
Quyền tự do hoạt động nghề nghiệp của người làm báo; quyền tự do ra báo, thành
lập các cơ quan truyền thông đại chúng; quyền tự do tiếp cận thông tin báo chí;
quyền tự do truyền phát thông tin, biểu đạt quan điểm và quyền được bảo vệ và đối
xử công bằng trên các phương tiện truyền thông đại chúng, môi trường mạng
Internet. Cần phải nói rằng, lâu nay rất nhiều người vì mục đích nào đó mà thường
chỉ nhấn mạnh các quyền tự do làm báo, tự do ra báo chí, tự do ngôn luận trên
báo chí mà quên đi quyền được bảo vệ một cách công bằng, đạo đức trên báo báo
chí, truyền thông. Hơn thế nữa, người ta cũng vô tình hay hữu ý mà không nhắc đến
vai trò của pháp luật trong điều chỉnh hoạt động báo chí phục vụ cho mục đích
chung, hài hòa và phúc lợi của nhân dân trong phạm vi xã hội dân chủ.
Như chúng
ta đã biết, thế giới đang chứng kiến và thụ hưởng những thành tựu to lớn của cuộc
cách mạng công nghệ thông tin. Internet ngày nay đã trở thành môi trường cung cấp,
chia sẻ, trao đổi, khai thác sử dụng thông tin cho mọi người dân. Internet còn
là kho tàng tri thức vô giá của nhân loại được tích lũy cùng với sự phát triển,
được lưu trữ và cung cấp cho cộng đồng. Ngày nay, hầu như các thông tin về mọi
mặt đời sống xã hội đều được cập nhật hàng ngày, thậm chí hàng giờ trên mạng
Internet để đáp ứng nhu cầu thông tin thường xuyên, thiết yếu của người dân.
Intemet đang thâm nhập vào cuộc sống hàng ngày của từng con người, từng gia
đình; hay rộng hơn là của xã hội và toàn thế giới. Nó đang trở thành nhu cầu
không thể thiếu đối với ngày càng nhiều người, nó tác động một cách trực tiếp
làm thay đổi nhận thức, hành vi của mỗi cá thể, qua đó tác động đến sự phát triển
của toàn xã hội.
Khi lượng
truy cập Internet trên toàn thế giới tăng, số lượng người dùng mạng xã hội cũng
vậy. Mạng xã hội, đặc biệt là MXH Facebook được đánh giá là một công cụ hữu hiệu,
mở ra rất nhiều cơ hội cho các quốc gia chủ động xây dựng và củng cố những giá
trị cốt lõi của quốc gia nhằm mang lại những giá trị về chính trị, kinh tế, xã
hội, văn hóa và bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa nhân văn truyền thống. Hiện
nay, các cơ quan đối ngoại của nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp, Đức...
đã sử dụng MXH để cung cấp thông tin cho người dân trong và ngoài nước, bạn bè
quốc tế.
Những năm
gần đây, người dân có xu hướng sử dụng và tìm kiếm thông tin trên các website
truyền thông xã hội nhiều hơn là ở website báo chí chính thống. Người Việt đứng
đầu Đông Nam Á về xem video trực tuyến với 92%, trong đó, 70% người Việt xem
video trên thiết bị điện thoại. Độc giả hiện nay dành 75% thời gian để xem
video thay vì đọc bài viết.
Do độ
tương tác cao, giao tiếp thuận lợi nên người dùng MXH có thể chia sẻ thông tin
và tương tác trực tuyến với nhau một cách dễ dàng và nhanh chóng như: thích,
bình luận, đăng ảnh, trò chuyện; sử dụng các ứng dụng, kết nối về một nội dung
hay một trang web nào đó. Mặt khác, nhờ đa dạng về không gian và thời gian, người
dùng có thể truy cập tham gia MXH ở bất kỳ đâu mà ở đó có dịch vụ internet với
cách thức cũng đa dạng như: Điện thoại di động thông minh, máy tính bàn, máy
tính xách tay, máy tính bảng, tính chủ động, linh hoạt rất cao. Vì vậy, thông
tin trên MXH có khả năng phát tán nhanh và rộng. Tuy nhiên, MXH là trang thông
tin mở, các hình ảnh, video, clip, bài viết, tin tức... được lưu hành và chia sẻ
chính là nội dung của MXH và do chính các thành viên tự sáng tạo ra. Càng nhiều
người sử dụng những thông tin trên MXH thì MXH càng trở thành kho lưu trữ nội
dung khổng lồ, trong khi việc thực hiện giám sát, kiểm duyệt nội dung, chất lượng
những thông tin trên MXH hiện nay còn hạn chế, hầu như phụ thuộc vào trình độ
nhận thức, quan điểm của mỗi người tham gia chia sẻ với nhau.
Do tính đặc
thù nên việc kiểm soát thông tin trên MXH là không dễ, các nguồn thông tin
đúng, sai khó bề kiểm chứng; tốc độ phát tán rộng rãi, nhanh chóng thông qua rất
nhiều hình thức khác nhau. Nếu một thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc, vu
khống, xúc phạm cá nhân hay tổ chức, hình ảnh nhạy cảm, phản cảm... sẽ gây tác
động tiêu cực đến nhiều người. MXH hiện đã trở thành môi trường tiềm năng, không
gian lý tưởng cho các thế lực thù địch và đối tượng xấu lợi dụng để thực hiện
các hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế cuộc sống đi nhanh nhưng pháp luật lại
đi sau khá nhiều, văn minh trên không gian mạng cũng mới chỉ ở khía cạnh cảnh tỉnh
bước đầu sau những hệ lụy mà nó gây ra cho toàn thế giới. Chính sự lệch pha này
làm nảy sinh nhiều vấn đề, nguy cơ. Giữ cho không gian mạng lành mạnh, không ô
nhiễm là nhiệm vụ của cả người dùng và cơ quan quản lý.
Như vậy
có thể thấy rằng, hầu hết các quốc gia đều nhận thức được xu thế phát triển và
tầm quan trọng của Internet trong kỷ nguyên thông tin đối với sự phát triển xã
hội, và đều có những chính sách phù hợp để khai thác thế mạnh của Internet phục
vụ cho lợi ích quốc gia, dân tộc. Về bản chất công nghệ, môi trường Internet là
môi trường mở, cho phép người sử dụng được tự do cung cấp tìm kiếm và sử dụng
thông tin. Vì vậy, tùy thuộc vào động cơ, mục đích và nhận thức của tổ chức, cá
nhân sử dụng mà thông tin đưa lên Internet là tích cực, hoặc tiêu cực, hoặc thậm
chí đi ngược lại lợi ích chính đáng của cộng đồng, xã hội.
Vấn đề cần
trao đổi ở đây là khi nói đến quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do
Internet như vậy thì tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet có giới hạn
không? Có tự do không giới hạn và có tự do tuyệt đối không? Vấn đề này cần được
nhận thức thật đúng và thể hiện thật rõ. Đó là không có tự do ngôn luận vô hạn
cũng không có tự do báo chí, tự do Internet không giới hạn, mà phải nằm trong
khuôn khổ pháp luật, và nó tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, hoàn cảnh lịch sử,
văn hóa, trình độ phát triển của từng quốc gia. Cần phải khẳng định rằng, tự do
báo chí, tư do ngôn luận, tự do Internet là thiêng liêng, là cần thiết cho cuộc
sống, là một biểu hiện cho tiến bộ và một yếu tố thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Nhưng tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do Internet chưa bao giờ và không
bao giờ là tự do chung chung, tự do cho mọi người, tự do vô bờ bến. Ngược lại,
tự do báo chí, tư do ngôn luận, tự do Internet bao giờ cũng là và chắc chắn là
tự do cho ai, tự do vì mục đích gì.
Mặt khác,
theo thực tế pháp lý ở tất cả các quốc gia trên thế giới, vấn đề có tính nguyên
tắc là tự do luôn gắn liền với trách nhiệm, quyền lợi luôn gắn liền với nghĩa vụ.
Mối quan hệ phổ biến này nhằm mục tiêu chính đáng và khách quan là đảm bảo cho
tự do của mỗi người không làm mất đi hay ảnh hưởng tiêu cực đến tự do của người
khác và của cộng đồng.
Đây cũng
chính là nguyên tắc căn bản mà Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên
hợp quốc đã khẳng định mạnh mẽ. Sau khi xác quyết các quyền tự do và quyền con
người nói chung, Điều 29 của Tuyên ngôn này khẳng định: “Khi thực hiện các quyền
và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích
duy nhất là đảm bảo sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự
do của người khác cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự
xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Nói cách khác, quyền tự do
nói chung, tự do báo chí, ngôn luận nói riêng của mỗi người là thiêng liêng, là
quan trọng, nhưng không có nghĩa là vì những quyền đó mà người ta có thể làm gì
cũng được. Vấn đề là con người sống trong một cộng đồng xã hội, vì thế, tự do của
mỗi con người cụ thể không thể tách rời tự do của cả cộng đồng. Hơn thế nữa,
chính sự tự do của mọi người, của cả cộng đồng là điều kiện đảm bảo cho tự do của
mỗi người. Vì thế, những quyền tự do của mỗi người không thể không bị hạn chế bởi
pháp luật nhằm bảo đảm cho tự do của những người khác, bảo đảm lợi ích chung
cho cả cộng đồng. Cũng đơn giản như, muốn lưu thông được trên đường một cách
thuận tiện, người ta không thể không tuân thủ luật giao thông.
Quyền con
người ngày càng có tầm quan trọng trong quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập
quốc tế sâu rộng của Việt Nam. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do Internet
là những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết thực hiện theo những
nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Hoạt động truyền thông,
báo chí luôn luôn song hành cùng với quá trình phát triển đất nước; từng bước
xây dựng và truyền tải rất nhiều thông tin hữu ích ở nhiều lĩnh vực khác nhau đến
nhân dân. Trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy quyền con người, thông qua các kênh
thông tin truyền thông, các giá trị xã hội, các chuẩn về quyền con người quốc tế
và Việt Nam được phổ biến và nhắc muc đi nhắc lại cho mọi người cùng biết, thuyết
phục và vận động mọi người cùng nhau tuân thủ để bảo đảm những lợi ích thiết yếu
và hợp pháp cho từng cá nhân hay bất cứ tổ chức nào.
Là quốc
gia thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, Việt Nam đã sớm tham gia, ký kết
các điều ước quốc tế về bảo đảm các quyền cơ bản của con người và quyền công
dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Ngay sau khi thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua
ngày 09/11/1946 đã hiến định tại Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự
do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do
cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến
định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến định
tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền
này do pháp luật quy định”.
2. Nhận diện hoạt động lợi dụng quyền tự do ngôn luận,
tự do Internet chống phá Việt Nam
Ngày nay,
bên cạnh những tác động tích cực nhiều mặt thúc đẩy sự phát triển xã hội, những
tác động tiêu cực của thông tin sai trái, độc hại trên Internet ngày càng gia
tăng phức tạp. Chính sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực viễn
thông nói chung, lĩnh vực Internet nói riêng đã đóng vai trò quyết định trong
việc hình thành và phát triển mạng Internet toàn cầu như ngày nay. Cũng như bất
kỳ một thành tựu khoa học nào của nhân loại, khi càng được ứng dụng rộng rãi
trong đời sống xã hội thì Internet sẽ càng dễ bị lợi dụng, sử dụng vào mục đích
sai trái hoặc là mục tiêu của giới tội phạm. Cuộc sống con người ngày nay phụ
thuộc nhiều vào Internet; điều này khiến cho các cá nhân, tổ chức và các quốc
gia dễ bị tấn công qua các hệ thống thông tin cũng như các hình thức tương tự.
Không phải ngẫu nhiên mà các chuyên gia máy tính đã nhận định “Thế kỷ XXI là thế
kỷ của tội phạm mạng” và “Chiến tranh mạng đã là nguy cơ hiện hữu”. Khác với
các hành vi vi phạm pháp luật truyền thống, hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực Internet xâm hại tới rất nhiều quan hệ xã hội, nhiều lĩnh vực khác
nhau như: ngân hàng, quân sự, an ninh, thương mại hay lĩnh vực văn hóa, như: giả
mạo trong thương mại điện tử, giả mạo trong thanh toán ngân hàng, phá hoại, các
loại tấn công làm tê liệt các dịch vụ máy chủ, tấn công làm tắc nghẽn đường
truyền, viruts, đánh cắp mật khẩu, đổi tên miền và địa chỉ IP, nghe lén thông
tin trên môi trường mạng, thư điện tử mạo danh, thư điện tử vô danh, trang
thông tin điện tử giả mạo, lấy cắp thông tin...
Trong
lĩnh vực thông tin, báo chí, xuất bản trong thời gian qua đã có hàng trăm trang
báo điện tử, hàng ngàn trang thông tin điện tử tổng hợp, hàng trăm ngàn trang
blog của cá nhân xuất hiện trên Internet. Lợi dụng chính sách khuyến khích người
dân tham gia không gian mở trên Internet để khai thác, chia sẻ thông tin đã xuất
hiện rất nhiều hành vi vi phạm trên môi trường mạng; chủ yếu như: Đăng, phát nội
dung không được phép; thông tin, hoạt động báo chí trái phép; thông tin sai sự
thật; đăng phát thông tin vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam; vi phạm quy định
về quảng cáo; không thực hiện đúng quy định ghi trong giấy phép, thông tin nói
xấu lãnh tụ, nói xấu chế độ, bôi nhọ nhân phẩm của tổ chức, cá nhân; đưa các xuất
bản phẩm có nội dung trái với đường lối, quan điểm của Đảng, các xuất bản phẩm
có nội dung vi phạm đã bị thu hồi lên mạng Internet... Sự bùng nổ của tin tức
giả mạo (tin bịa đặt, sai sự thật) mang lại không ít phiền toái cho người sử dụng
mạng xã hội trong những năm vừa qua. Tin tức giả mạo tràn ngập Facebook,
Google, Twitter... đặc biệt liên quan đến các sự kiện lớn. Tại Việt Nam, số liệu
thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng của Bkav cho thấy, 63% người
dùng thường xuyên đọc được tin tức giả mạo trên Facebook, trong đó 40% là nạn
nhân hằng ngày. Không chỉ khiến người đọc hoang mang, tin tức giả mạo còn tiềm ẩn
nguy cơ gây bất ổn xã hội khi kẻ xấu cố tình đưa tin sai sự thật liên quan đến
tình hình kinh tế, chính trị của đất nước.
Đối với
lĩnh vực an ninh quốc gia, TTATXH của Việt Nam, hiện tội phạm mạng đã trở thành
mối đe dọa hàng đầu như các hoạt động kích động, lôi kéo biểu tình, nói xấu Đảng
và Nhà nước trên mạng, ngoài ra còn có truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, vi phạm
bản quyền số... Tình hình mất an toàn thông tin số tiếp tục diễn biến phức tạp,
xuất hiện nhiều nguy cơ đe dọa đến việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng - an ninh. Đặc biệt, trong diễn
biến phức tạp của tình hình an ninh thế giới, khu vực hiện nay, bí mật thông
tin là một nội dung quan trọng mà các nước, các cơ quan đặc biệt thường xuyên
thu thập để phục vụ cho cạnh tranh trong hoạt động kinh tế, có lợi cho quan hệ
đối ngoại, an ninh quốc phòng... Các thế lực thù địch và phản động đang ráo riết
sử dụng tối đa các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội từ bên ngoài để
tuyên truyền tâm lý, tạo dư luận trong nước cũng như ngoài nước nhằm chống phá
Việt Nam. Chúng triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt, hiệu quả của các
phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để đẩy mạnh tuyên truyền,
xuyên tạc, kích động quần chúng nhân dân hàng mua chuộc, lôi kéo, tập hợp lực
lượng từ các phần tử dân tộc, tôn giáo cực đoan, đối tượng có tư tưởng hận thù,
phần tử cơ hội, bất mãn, thoái hóa biến chất, một bộ phận quần chúng nhẹ dạ, cả
tin... để hình thành tổ chức bí mật ở trong nước và nước ngoài nhằm phục vụ cho
các hoạt động bạo loạn, lật đổ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt
Nam. Đáng chú ý, hoạt động phá hoại tư tưởng chủ yếu tập trung vào các thời điểm
trước và trong khi diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng của Việt Nam. Các
hãng thông tấn báo chí nước ngoài như Đài Châu Á tự do (RFA), BBC Việt ngữ, tiếng
nói Hoa Kỳ (VOA), Đài Phát thanh quốc tế Pháp (RFI)... thường là đối tượng chống
phá Việt Nam dữ dội, quyết liệt và thường xuyên nhất, tập trung vu cáo Việt Nam
xiết chặt tự do ngôn luận, tự do tư tưởng bằng cách cố súy cho một số đối tượng
chống Đảng, Nhà nước (các vụ việc nổi cộm như vụ việc Cù Huy Hà Vũ trước đây,
blogger Mẹ Nấm, thành viên của cái gọi là Hội Nhà báo Việt Nam độc lập...). Các
phương tiện truyền thông này đã xuyên tạc tự do chính trị tại Việt Nam, bôi nhọ
lực lượng hành pháp, tác động tới nhận định của các nước phương Tây về tình
hình tự do, nhân quyền của Việt Nam, làm xấu đi quan hệ ngoại giao của Việt Nam
với quốc tế.
Mới đây,
cơ quan nghiên cứu của Nghị viện châu Âu công bố bản báo cáo về các hoạt động hỗ
trợ những nhà hoạt động nhân quyền trên toàn thế giới; trong đó có những thông
tin, nhận định thiếu khách quan, công bằng, dựa trên một số thông tin sai lệch,
không có cơ sở, không phản ánh đúng thực tế về tình hình nhân quyền tại Việt
Nam. Theo nội dung của bản báo cáo, Nghị viện châu Âu cho rằng, họ đã gặp nhiều
giới hạn trong việc bảo vệ những nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam; cáo buộc
Việt Nam “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, “đàn áp, bỏ tù người vô tội”; thậm chí,
cho rằng Việt Nam là “chế độ đàn áp”. Trong khi đó, danh sách những “nạn nhân của
chế độ” được liệt kê trong báo cáo này lại là những đối tượng chống phá cộm cán
như: Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay gần đây nhất
là Phạm Đoan Trang. Đây không phải là lần đầu Nghị viện châu Âu đưa ra những
đánh giá, nhận định sai lệch, thiếu khách quan, thiếu thiện chí về tình hình
nhân quyền tại Việt Nam.
Có thể khẳng
định, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước
Việt Nam. Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi
mới và công cuộc phát triển đất nước, và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống,
quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau. Các quyền và tự
do cơ bản của con người được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam, được bảo vệ và
thúc đẩy bởi các văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai trong thực tiễn. Ở
Việt Nam, tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có nghĩa vụ tuân thủ
các quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật, bởi bất cứ ai và vì
bất cứ lý do gì, đều phải bị xét xử nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật
và bảo đảm sự thụ hưởng đầy đủ các quyền và tự do của mỗi người dân trong một
xã hội an toàn, trật tự và công bằng. Không ai bị bắt giữ, xét xử vì thực hiện
các quyền con người một cách chính đáng.
Đối với
trường hợp như Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Tiến Trung hay Phạm
Đoan Trang được nhắc đến trong báo cáo của Nghị viện Châu Âu là “tù nhân chính
trị” thực chất là những đối tượng núp bóng dẫn chủ, nhân quyền, thường xuyên có
các hoạt động chống phá, kích động bạo lực, lôi kéo, tập trung các đối tượng xấu
để gây rối trật tự công cộng nhằm mục đích phá vỡ sự ổn định chính trị của đất
nước, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là những hành vi vi phạm pháp luật,
cần phải xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, hoàn toàn không phải hành động “đàn áp người
đấu tranh” như một số nhận định chủ quan, phiến diện, một chiều, mang tính bao
biện cho các sai phạm của những phần tử chống đối.
II. Nỗ lực, kết quả đảm bảo tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tự do Internet ở Việt Nam
Nhân quyền
là một lĩnh vực rộng, liên quan trực tiếp đến đời sống của con người, là tổng hợp
của các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Trong đó, những quyền
cơ bản, thiết yếu, thực tế nhất là quyền được sống, quyền được bình đẳng, quyền
được phát triển trong một xã hội an toàn, quyền được học tập, quyền được lao động,
quyền tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận... Những năm qua, dù là đất nước
đang phát triển, đời sống kinh tế - xã hội còn gặp nhiều khó khăn nhưng Việt
Nam luôn nỗ lực và đã đạt được những kết quả tích cực trong bảo vệ quyền con
người, điển hình: Theo Báo cáo kinh tế - xã hội tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII của Đảng, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã
giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống dưới 3% vào năm 2020; đã hoàn thành mục tiêu
phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tại Việt Nam không có khủng bố, người
dân được sinh sống và lao động trong mỗi trường an ninh, an toàn, ổn định...
Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới năm 2022 của Liên hợp quốc, chỉ số hạnh phúc quốc
gia của Việt Nam xếp vị trí 77 (tăng 2 bậc so với năm 2021).
Đảng, Nhà
nước Việt Nam luôn sẵn sàng trao đổi, đối thoại cởi mở với các cơ quan, tổ chức
quốc tế về quyền con người trên tinh thần xây dựng nhằm tăng cường hiểu biết lẫn
nhau; để các cơ quan, tổ chức quốc tế có những nhận định, đánh giá thực tiễn
tình hình nhân quyền trong nước trên cơ sở công bằng, minh bạch, khách quan. Mặt
khác, Việt Nam không bao giờ chấp nhận và kiên quyết đấu tranh với những luận
điệu, đánh giá chủ quan, phiến diện, thiếu thiện chí, không có cơ sở, không phản
ánh đúng tình hình thực tế tại Việt Nam.
Hiện nay,
Việt Nam đang đang tiếp tục hướng tới mục tiêu đảm bảo ngày càng tốt hơn các
quyền cơ bản của người dân, xây dựng nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng văn minh, đồng thời chủ động ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn sử dụng
vấn đề ”dân chủ, nhân quyền” để chóng phá cách mạng Việt Nam. Để thực hiện mục
tiêu này, công tác thông tin, tuyên truyền có vai trò, vị trí rất quan trọng.
Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác
nhân quyền trong tình hình mới đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm của công tác
nhân quyền, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là: Tăng cường công tác tuyên truyền,
giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân để mọi người nhận thức sâu sắc hơn về
quan điểm của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của công dân, nhận thức rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta là vì con
người. Ngày 06/2/2018, trên cơ sở tổng kết đánh giá việc thực hiện Chỉ thị số
44, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 46-TB/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị
44-CT/TW của Ban Bí thư (Khóa X) về công tác nhân quyền trong tình hình mới.
Quyết định số 42/QĐ-TTg ngày 12/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án
tuyên truyền thành tựu của Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn giáo
và Quyết định số 16/QĐ-TTg ngày 02/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề
án nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về quyền con người ở Việt Nam là những
văn bản chỉ đạo quan trọng vê công tác tuyên truyền về quyền con người trong
tình hình mới.
1. Hành lang pháp lý
Hiến pháp
năm 2013 nêu rõ: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật
quy định.
Các quyền
tự do ngôn luận, báo chí đã được khẳng định ngay trong Điều 10, Hiến pháp đầu
tiên (năm 1946) của Nhà nước Việt Nam, sau đó được tiếp tục ghi nhận trong các
bản Hiến pháp sau này. Các quyền hiến định đó được thể chế hóa trong nhiều văn
bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
Cụ thể,
luật Báo chí có ghi rõ các điều khoản về bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí
và Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện các
quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí. Báo chí và nhà báo hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức và cá nhân
nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Đồng thời, không ai được
lạm dụng các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi
ích Nhà nước, tập thể và công dân.
Công dân
có quyền được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình trong nước và thế
giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không phải kiểm duyệt; chịu trách nhiệm
trước pháp luật về nội dung thông tin, phát biểu ý kiến, góp ý kiến, phê bình,
kiến nghị, khiếu nại.
Luật cũng
quy định trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong việc đăng, phát sóng các tác
phẩm, ý kiến của công dân, trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có chức vụ trả lời
khiếu nại, tố cáo, ý kiến đóng góp...
Cần nhấn
mạnh rằng, mỗi nước, do bản chất của chế độ chính trị-xã hội, trình độ phát triển
kinh tế, văn hóa, điều kiện lịch sử đặc thù, tình hình cụ thể trong nước và quốc
tế, mà định ra các luật của mình tương thích với nhu cầu thực tế phát triển của
đất nước. Do vậy, luật báo chí của các quốc gia, các khu vực khác nhau sẽ không
giống nhau và trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác biệt nhau. Chính vì
vậy, nội hàm cụ thể của quyền tự do báo chí, xuất bản, thông tin cũng khác nhau
ở các nước khác nhau.
Tuy
nhiên, tất cả các quyền này, dù ở bất cứ quốc gia nào cũng không phải là các
quyền tuyệt đối, không giới hạn, mà là các quyền có giới hạn. Giống như ở nhiều
nước, luật Báo chí của Việt Nam cũng ghi rõ những điều không được thông tin
trên báo chí.
Cụ thể,
báo chí không được kích động nhân dân chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; không được kích động bạo lực, tuyên
truyền chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước,
kích động dâm ô, đồi trụy, tội ác; không được tiết lộ bí mật Nhà nước; không được
đưa tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nhằm xúc phạm danh dự của tổ chức,
danh dự và nhân phẩm của công dân.
Luật An
ninh mạng năm 2016 quy định
Điều 3.
Chính sách của Nhà nước về an ninh mạng
1. Ưu
tiên bảo vệ an ninh mạng trong quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội,
khoa học, công nghệ và đối ngoại.
2. Xây dựng
không gian mạng lành mạnh, không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự,
an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Điều 4.
Nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng
1. Tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy
động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc; phát huy vai trò
nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.
3. Kết hợp
chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng
vê an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động
trên không gian mạng.
4. Chủ động
phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt động sử dụng
không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các nguy cơ đe dọa
an ninh mạng
5. Triển
khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc
gia; áp dụng các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc
gia.
6. Hệ thống
thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được thẩm định, chứng nhận đủ điều kiện
về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành, sử dụng; thường xuyên kiểm tra,
giám sát về an ninh mạng trong quá trình sử dụng và kịp thời ứng phó, khắc phục
sự có an ninh mạng.
7. Mọi
hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng phải được xử lý kịp thời, nghiêm
minh.
Để quyền
tự do ngôn luận của người dân được thực thi nghiêm túc và toàn diện, các luật,
văn bản dưới luật về tự do ngôn luận đã cụ thể hóa Hiến pháp, ngày càng được
hoàn thiện để vừa bảo đảm quyền của công dân, vừa giúp quyền đó thực hiện trên
cơ sở luật pháp. Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật
An ninh mạng năm 2018 nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức và công dân. Nghiêm cấm những hành vi đăng tải, phát tán
thông tin sai lệch, xuyên tạc, phi báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây
hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc
phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy
tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Ngày 17/6/2021, Bộ
Thông tin và Truyền thông có Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ban hành Bộ Quy tắc ứng
xử trên mạng xã hội quy định cho tổ chức, cá nhân khi tham gia mạng xã hội có
những ứng xử phù hợp.
2. Thực tiễn
Mọi người
dân ở Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân
thông qua Internet, nhất là qua mạng xã hội. Đó là những minh chứng sống động của
việc Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng và bảo vệ quyền phát triển của mỗi người
dân, quyền được tự do thông tin, tự do Internet
- Những
thành tích của Việt Nam về Internet trong những năm qua rất ấn tượng. Ngày
19/11/1997, Việt Nam chính thức hòa vào mạng lưới Internet toàn cầu. Theo thống
kê, vào thời điểm đó, số người sử dụng mạng Internet ở Việt Nam chi hơn 200.000
người, đến năm 2002 có khoảng 3 triệu người sử dụng Intemet (khoảng 4% dân số cả
nước thời điểm đó), năm 2007 là gần 20 triệu người, tăng thêm gần 7 lần (chiếm
khoảng 24% dân số cả nước). Theo số liệu thống kê của Bộ TTTT, tính tới tháng
9/2022, số lượng người dùng Internet ở Việt Nam là khoảng 70 triệu người, tăng
0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng
xã hội ở Việt Nam là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1
năm (tương đương 73,7% dân số). Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng
người dùng Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 trong tổng số
35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới
gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ
người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%.
- Nhờ hạ
tầng băng rộng đã được phủ sóng khắp cả nước, Internet giờ đây đã có mặt ở mọi
nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, biên giới, hải đảo.
Internet ứng dụng mọi lĩnh vực của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao thông… tới
cả xây dựng chính phủ điện tử. Bộ TTTT đã thành lập Tổ công tác phát triển 5G với
thành phần là lãnh đạo một số tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ, viễn thông và
lãnh đạo các cơ quan, đơn vị của Bộ nhằm: (i) định hướng, hỗ trợ, dẫn dắt doanh
nghiệp Việt Nam nghiên cứu, phát triển, làm chủ công nghệ 5G, sản xuất thiết bị
đầu cuối 5G của Việt Nam, phát triển các nền tảng công nghệ số Make in Vietnam
phục vụ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số; (ii) tạo điều kiện thuận
lợi nhất, hỗ trợ giải quyết các yêu cầu, khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp
trong hoạt động này. Hiện các thiết bị 5G do Viettel có khả năng nghiên cứu, sản
xuất đã đầy đủ ở các phân lớp hệ thống mạng 5G (mạng lõi, mạng truyền dẫn, mạng
truy cập) và đã được triển khai cung cấp thử nghiệm dịch vụ ở một số khu vực với
tốc độ download 1.5 Gbps, upload 60 Mbps.
a) Chuyển
đổi số theo hướng Chính phủ kiến tạo, tăng cường minh bạch thông tin, nâng cao
chất lượng phục vụ nhân dân
Bộ TTTT
đã tham mưu Chính phủ ban hành Nghị định số 47/2020/NĐ- CP ngày 09/4/2020 của
Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước. Nghị
định quy định các nội dung về: Quản lý, quản trị dữ liệu số; kết nối, chia sẻ dữ
liệu số; sử dụng, khai thác dữ liệu số của cơ quan Nhà nước; cung cấp dữ liệu mở
của cơ quan Nhà nước cho tổ chức, cá nhân; quyền và trách nhiệm trong kết nối,
chia sẻ dữ liệu số của cơ quan Nhà nước. Đây là một mốc quan trọng trong quá
trình xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.
- Tham
mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê
duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm
2030. Chương trình Chuyển đổi số quốc gia nhằm giải quyết thách thức, tận dụng
tối đa cơ hội, khai thác lợi thế đặc thù của Việt Nam để đi nhanh và đi đầu, tạo
lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực, huy động sức mạnh toàn dân trong thực hiện
chuyển đổi số, thay đổi thứ hạng quốc gia trên thế giới. Bộ TTTT đã triển khai
nhiều biện pháp đồng bộ nhằm đảm bảo quyền con người trong bối cảnh đại dịch
Covid-19, cụ thể: (1) triển khai thiết lập hạ tầng phục vụ công tác chỉ đạo điều
hành của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước về ứng phó với dịch bệnh Covid-19 trên phạm
vi toàn quốc; (2) thiết lập hệ thống giao ban trực tuyến giữa Bộ Y tế và các bệnh
viện có liên quan; kết nối nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh từ xa tới
100% huyện; phối hợp với các đơn vị của Bộ Y tế chỉ đạo, điều phối các doanh
nghiệp viễn thông di động triển khai các biện pháp phòng chống diễn biến mới của
dịch Covid-19 (3) đảm bảo quyền tiếp cận giáo dục, tiếp cận y tế, tiếp cận các
dịch vụ công, ta đã hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc dạy học trên các nền
tảng công nghệ số như: Hỗ trợ miễn phí hạ tầng công nghệ thông tin; cung cấp miễn
phí giải pháp đào tạo trực tuyến; miễn phí cước data di động; phát sóng miễn
phí các chương trình dạy học qua truyền hình....; công bố gói hỗ trợ dịch vụ viễn
thông lên tới gần 10.000 tỷ đồng;
- Thu hẹp
khoảng cách thụ hưởng thông tin, tiếp cận internet giữa các vùng miền, Bộ TTTT
đã và đang triển khai Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm
2025 theo hướng khắc phục tồn tại khoảng cách số giữa các vùng miền, hỗ trợ hiện
thực các mục tiêu về chuyển đổi số Quốc gia, bảo đảm cung cấp dịch vụ truy nhập
Intenet băng rộng, dịch vụ thông tin di động tại tất cả các địa bàn cấp thôn
trên phạm vi cả nước.
- Phát
huy lợi ích của Internet trong phục vụ người dân tiếp cận với các dịch vụ công,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ
số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày
15/6/2021). Đây là văn bản chiến lược đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công
cuộc chuyển đổi số nói chung và phát triển Chính phủ số nói riêng của Việt Nam.
Chiến lược lần đầu tiên đưa ra khái niệm Chính phủ số với nhiều điểm mới, đột
phá về tầm nhìn chiến lược, tư tưởng chiến lược với các giải pháp đột phá là sử
dụng nền tảng và định hướng mở để thúc đẩy phát triển chính phủ số nhằm giải
quyết thách thức, tận dụng tối đa cơ hội, khai thác lợi thế đặc thù của Việt
Nam để đi nhanh và đi đầu, tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút nguồn lực, huy động
sức mạnh toàn dân trong thực hiện chuyển đổi số, thay đổi thứ hạng quốc gia trên
thế giới.
b) Xây dựng,
hoàn thiện chính sách, pháp luật về quản lý báo chí, thông tin trên Internet
- Triển
khai quyết liệt, đúng tiến độ Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc
đến năm 2025 hướng tới một nền báo chí phát triển lành mạnh, nền tảng cho việc
đổi mới mô hình và tổ chức, quản lý nền báo chí nhằm phát triển xã hội thông
tin, cũng là yêu cầu cấp bách của thực tiễn báo chí trước sự thay đổi và phát
triển mạnh mẽ của cách mạng công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
- Tham
mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin
và giao dịch điện tử và Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động báo chí, hoạt động xuất bản. 2 Nghị định được ban hành kịp thời, phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội, đáp ứng được yêu cầu thực tế đấu tranh phòng, chống
các hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số
vô tuyến điện, công nghệ thông tin, giao dịch điện tử, báo chí, xuất bản, thông
tin điện tử; tạo ra khung pháp lý đồng bộ, hoàn chỉnh, các quy định, chế tài xử
phạt rõ ràng, minh bạch, góp phần quan trọng giúp cho lực lượng thanh tra
chuyên ngành, các cơ quan liên quan trong việc bảo đảm trật tự, kỷ cương, nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về Thông tin và Truyền thông đồng thời nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Tiến
hành sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/2013/NĐ-CP và Nghị định số - 27/2018/NĐ-CP
quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng,
nhằm (1) tránh tình trạng bát nháo, báo hóa trang thông tin điện tử, mạng xã hội
(MXH), (2) để quản lý tốt hơn các MXH và (3) quản lý tốt hơn dịch vụ thông tin
xuyên biên giới.
Hiện tại,
Bộ TTTT đang tiến hành việc sơ kết, đánh giá việc thực hiện Luật Báo chí, Luật
Xuất bản, trên cơ sở đó, sẽ báo cáo Chính phủ đưa vào chương trình xây dựng luật
của Quốc hội trong giai đoạn 2023 - 2025 nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống quy
phạm pháp luật, đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân, đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong hoạt động báo chí. Đồng thời, đã
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Truyền thông về quyền con người ở Việt
Nam giai đoạn 2023 – 2028.
c) Đảm bảo
an toàn thông tin, bảo mật thông tin cá nhân, bảo vệ quyền trẻ em trên môi trường
mạng
- Trình
Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 41-CT/TW ngày 24/3/2020 về tặng cường phối hợp
và triển khai đồng bộ các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh mạng.
Triển
khai thực hiện Đề án “Bảo vệ và hỗ trợ trẻ em tương tác lành mạnh, sáng tạo
trên môi trường mạng giai đoạn 2020-2025” (Quyết định số 830/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ). Đây là Đề án giúp trẻ em biết tự bảo vệ mình khi tham gia môi trường
mạng thông qua các chương trình, chiến dịch do các cơ quan, tổ chức triển khai,
thực hiện; các tổ chức kinh tế - xã hội có đủ điều kiện về cơ chế, chính sách để
phát triển các sản phẩm, dịch vụ giúp trẻ em tương tác sáng tạo trên không gian
mạng, từng bước hình thành thị trường riêng về các sản phẩm, dịch vụ số cho trẻ
em; các sự việc tiêu cực xảy ra khi trẻ em tương tác trên không gian mạng được
dự báo, phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn kịp thời thông qua các biện pháp kỹ
thuật.
- Ban
hành Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội cho các nhà cung cấp dịch vụ và người sử
dụng mạng xã hội Việt Nam, hướng tới xây dựng môi trường mạng lành mạnh, an
toàn tại Việt Nam. Việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên MXH đóng vai trò như một
khuôn khổ thể chế “mềm”, để bổ sung cho các khung pháp lý chính thức của Nhà nước
(Quyết định số 874/QĐ-BTTTT ngày 17/6/2021).
- Chỉ đạo
đơn vị chức năng thuộc Bộ TTTT (Cục ATTT) chủ động và quét trên không gian mạng
Việt Nam, đánh giá, thống kê và tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, cảnh báo trên
các phương tiện thông tin đại chúng để người dùng biết và phòng tránh; tăng cường
công tác giám sát, điều hành các nhà mạng phát hiện, ngăn chặn, hướng tới mục
tiêu hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương về kỹ thuật điều hòa tỷ lệ thông tin tiêu
cực trên không gian mạng.
Về an
toàn, an ninh mạng: Việt Nam là một trong số không nhiều những quốc gia trên thế
giới được Liên hợp quốc đánh giá cao về những kết quả tích cực trong xây dựng
và phát triển chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số. Năm 2020, xếp hạng
Chính phủ điện tử của Việt Nam là 86/193 (đứng thứ 6 trong ASEAN; chỉ số tổng hợp
là 0,6667, cao hơn chỉ số trung bình của thế giới và khu vực, thuộc nhóm quốc
gia ở mức Cao). Tính đến ngày 15/12/2021, cả nước đã có 70 bộ, ngành, địa
phương hoàn thành việc đưa 100% dịch vụ công (DVC) đủ điều kiện lên cung cấp trực
tuyến mức độ 4. Tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 4 trên tổng số DVC
đủ điều kiện trung bình trên cả nước đạt 96%; tỷ lệ DVCTT mức độ 3,4 có phát
sinh hồ sơ, đạt 36,47% (giảm 1,35% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, tỷ lệ
này giảm do năm 2021 số lượng DVCTT mức 3, 4 tăng cao - tăng 15.868 dịch vụ so
với năm 2020); tỷ lệ hồ sơ xử lý trực tuyến đạt 29,8% (tăng 6,82% so với cùng kỳ
năm 2020). Tính đến tháng 12/2020, 22/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 63/63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã có Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh
(LGSP) và kết nối với Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NDXP), đạt tỷ
lệ 100%. Tổng số hệ thống đã kết nối với NDXP là 220 hệ thống thông tin của 90
cơ quan, đơn vị; trong đó có 85 LGSP của bộ, ngành, địa phương; 05 cơ sở dữ liệu
và 09 hệ thống thông tin có quy mô, phạm vi từ Trung ương đến địa phương. Tính
đến ngày 22/11/2021, tổng số giao dịch thực hiện thông qua NDXP trong năm 2021
là 98.473.730. Hàng ngày có khoảng 270.000 giao dịch thực hiện thông qua NDXP.
d) Xây dựng
cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh đưa thông tin về cơ sở
Nhằm tăng
cường hoạt động thông tin và nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho hộ nghèo,
đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, Bộ
TTTT đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành và triển khai thực hiện:
(1) Quyết định số 1168/QĐ-TTg ngày 24/7/2015 phê duyệt Chương trình cung cấp dịch
vụ viễn thông công ích đến năm 2020; (2) Quyết định số 467/QĐ-TTg ngày
25/4/2019 về tích hợp các chính sách hỗ trợ thông tin, tuyên truyền cho hộ
nghèo, đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải
đảo kết hợp với các Chương trình Mục tiêu Quốc gia về thông tin, Chương trình Mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững; (3) Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày
20/01/2020 phê duyệt Đề án nâng cao hiệu quả hoạt động thông tin cơ sở dựa trên
ứng dụng công nghệ thông tin tăng tiếp cận thông tin ở cơ sở; (4) Quyết định số
942/QĐ-TTg ngày 15/06/2021 phê duyệt Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng
tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 nhằm phổ cập và
cá nhân hoá các dịch vụ (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ y tế...) tới từng người
dân để phục vụ quyền của người dân tốt hơn; tạo ra cơ hội cho người dẫn ở vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo tiếp cận dịch vụ trực tuyến một cách công bằng,
bình đẳng và nhân văn rộng khắp “không ai bị bỏ lại phía sau”.
đ) Tăng
cường công tác quản lý, điều hướng thông tin trên mạng
Thời gian
qua, Bộ TTTT đã tăng cường quản lý nhà nước về thông tin trên mạng, quyết liệt
đấu tranh ngăn chặn thông tin xấu, độc trên môi trường mạng Internet, làm việc
yêu cầu với Facebook, Google loại bỏ thông tin xấu độc trên mạng xã hội có đông
người dùng Việt Nam:
- Thực hiện
nghiêm túc công tác thanh tra, xử phạt đối với các vi phạm của các cơ quan báo
chí, các nhà xuất bản, chấn chỉnh tình trạng thông tin thiếu kiểm chứng, sai sự
thật, buông lỏng quản lý trong hoạt động liên kết trong báo chí và xuất bản; xử
lý nghiêm các trường hợp lợi dụng mạng xã hội đưa tin sai sự thật; yêu cầu các
cơ quan chủ quản báo chí tự nâng cao trách nhiệm, phối hợp với Bộ Công an để điều
tra, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, xâm phạm lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của chức, công dân. 2N
- Căn cứ
Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT quy định chi tiết về cung cấp thông tin công cộng
qua biên giới, Bộ TTTT đã yêu cầu các trang thông tin điện tử và mạng xã hội nước
ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam phải tuân thủ các quy định
của pháp luật Việt Nam; duy trì cơ chế gỡ bỏ thông tin vi phạm quy định pháp luật
Việt Nam (đặc biệt là các thông tin phản động, kích động, thù hằn dân tộc, bôi
nhọ, mạo danh các lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam) với các doanh nghiệp viễn
thông, Facebook, YouTube, Google và các dịch vụ mạng xã hội khác.
- Thành lập
Trung tâm xử lý tin giả Việt Nam (VAFC - ngày 12/01/2021) với chức năng, nhiệm
vụ phối hợp với các cơ quan chức năng thẩm định, công bố tin giả; đánh giá xu
hướng thông tin chia sẻ, tương tác lớn để dán nhãn cảnh báo tin giả; tiếp nhận,
phát hiện, thẩm định, gắn nhãn tin giả; công bố thông tin xác thực; hướng dẫn
cách nhận biết, phòng tránh, đối phó với tin giả.
- Ngày
07/6/2022, Bộ TTTT đã ban hành Quyết định số 1048/QĐ-BTTTT thành lập Tổ chuyên
gia công tác TTĐN, có nhiệm vụ: Xây dựng báo cáo phát hiện thông tin sai lệch ảnh
hưởng tín nhiệm, hình ảnh đất nước; Thống nhất lập luận, giải thích, làm rõ đối
với thông tin sai lệch ảnh hưởng tín nhiệm, hình ảnh đất nước; Đề xuất phương
án xử lý tình huống, vụ việc liên quan đến TTĐN; các biện pháp thông tin, truyền
thông cần thiết để bảo vệ tín nhiệm, hình ảnh Việt Nam; đề nghị các bộ, ban,
ngành, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ cung cấp thông tin giải thích, làm
rõ; Phối hợp với các cơ quan liên quan xác định mức độ, vi phạm, đề xuất, kiến
nghị chuyển hồ sơ đến cơ quan chức năng xử lý, giải tỏa thông tin, ổn định dư
luận.
3. Ghi nhận của dư luận, báo chí quốc tế
Về phát
triển và ứng dụng công nghệ, công nghệ số ngày càng là động lực mới cho đà phát
triển bền vững cho kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việt Nam được dự báo trở
thành cường quốc kỹ thuật số mới ở Đông Nam Á. Tổng giá trị giao dịch kỹ thuật
số của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 220 tỷ USD vào năm 2030, đứng thứ hai Đông
Nam Á, sau Indonesia. Việt Nam đứng đầu trên tổng số 154 quốc gia về Chỉ số chấp
nhận tiền điện tử toàn cầu (GCAI), vượt xa các nước phát triển như Mỹ, Trung Quốc,
Anh, Pháp, Đức... Điều này cho thấy người dân Việt Nam rất cởi mở với công nghệ
blockchain Việt Nam đứng thứ 62 toàn cầu và đứng thứ 06 trong 10 nước ASEAN về
chỉ số sẵn sàng trí tuệ nhân tạo (AI) năm 2021. Sự tiến bộ của Việt Nam thông
qua việc thăng hạng thể hiện sự đầu tư của Chính phủ vào công nghệ mới AI là
hoàn toàn “đúng hướng” và hợp lý.
III. Về xếp hạng tự do Internet gần đây
Tổ chức
Freedom House (trụ sở tại Mỹ) ngày 18/10 công bố báo cáo “Tự do Internet 2022”,
trong đó xếp hạng Việt Nam là một trong 05 quốc gia kém tự do internet nhất thế
giới.
Báo cáo
cho rằng, Việt Nam không có tự do internet, chỉ đạt 22 điểm trên thang điểm
100, trong đó 12 điểm cho danh mục “trở ngại để truy cập”, 06 điểm cho “giới hạn
nội dung” và 04 điểm cho “vi phạm quyền của người dùng”.
Năm nay,
Việt Nam chỉ xếp trên Cuba (20 điểm), Iran (16), Myanmar (12) và Trung Quốc
(10) về tự do internet. Theo Freedom House, đây là năm thứ ba liên tiếp Việt
Nam bị điểm 22/100 và là năm thứ bảy liên tiếp Việt Nam không có tự do
internet.
Bảng xếp
hạng Tự do Internet 2022 dựa vào các tiêu chí: (i) hành vi ngăn chặn các trang
web; (ii) sự tác nghiệp của dư luận viên ủng hộ Chính phủ; (iii) ban hành chính
sách mới để kiểm duyệt, bắt bớ và giam cầm người dùng, sử dụng bạo lực đối với
người dùng; (iv) các biện pháp tấn công kỹ thuật để đánh giá về tình hình tự do
internet ở Việt Nam.
Theo báo
cáo, quyền tự do internet vẫn bị hạn chế ở Việt Nam do Chính phủ thực thi các
biện pháp kiểm soát nghiêm ngặt đối với môi trường trực tuyến của đất nước. Mặc
dù chính quyền Việt Nam không làm gián đoạn kết nối hoặc ngăn chặn các máy chủ
của Facebook như đã làm trước đây, nhưng nhà nước vẫn tiếp tục yêu cầu các công
ty xóa, gỡ nội dung các bài đăng và tuyên các bản án hình sự hà khắc đối với những
người phản biện trên mạng xã hội.
* Freedom House (FH) là ai?
Freedom
House (https://freedomhouse.org) là một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại Mỹ
và được chính phủ Mỹ tài trợ, với mục đích hoạt động là tiến hành nghiên cứu, ủng
hộ dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền. FH được thành lập vào tháng 10 năm
1941 với Wendell Willkie và Eleanor Roosevelt (phu nhân Tổng thống Mỹ khi đó)
là chủ tịch đầu tiên.
Ngoài trụ
sở chính đặt tại Thành phố New York, Mỹ, FH còn có 11 văn phòng khác trên thế
giới tại Hungary, Jordan, Kazakhstan, Kyrgyzstan (2 văn phòng), Mexico,
Tunisia, Ba Lan, Serbia, Nam Phi, Ukraina. Tổ chức này tuyên bố họ là “chất xúc
tác cho làn sóng dân chủ” trên toàn cầu. Trong thập niên 1940, FH ủng hộ Kế hoạch
phát xít hóa và việc thành lập phe trục, có tinh thần chủ nghĩa chống cộng cao.
FH làm ra những tiêu chuẩn để đánh giá nhân quyền và tự do của công dân. Trong
thập niên 1980 họ giúp đỡ phong trào Công đoàn cực đoan ở Ba Lan và phe đối lập
dân chủ ở Philippines. Gần đây, FH can dự vào việc lật đổ chính quyền ở Serbia,
Ukraina và Kyrgyzstan, Iraq, Syria.
* Cách đánh giá thiếu khách quan, khoa học của FH
Từ năm
1972, tổ chức này xuất bản một báo cáo thường niên mang tên “Freedom in the
World” để chỉ về mức độ tự do dân chủ ở các quốc gia và lãnh thổ trên toàn thế
giới, theo cách đánh giá của FH tình trạng dân chủ và tự do được đánh giá trên
thang điểm từ 1 (tự do nhất) đến 7 (ít tự do nhất). Các nơi có mức trung bình từ
1,0 đến 2,5 được coi là “tự do”. Nơi có giá trị từ 3,0 đến 5,5 được coi là “tự
do trung bình” và nơi có giá trị từ 5,5 đến 7,0 được coi là “không có tự do”.
Báo cáo năm 2020 đến nay thực hiện việc đánh giá, xếp hạng đối với 195 quốc gia
và 15 vùng lãnh thổ.
Phương
pháp tính của Báo cáo này dựa vào một phổ rất rộng các tiêu chí căn cứ trên
Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm
1948. Báo cáo dựa trên giả định rằng các tiêu chuẩn này có phạm vi áp dụng đối
với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt vị trí địa lý,
dân tộc, tôn giáo hay mức độ phát triển kinh tế.
Cách tính
toán của FH: Mỗi quốc gia chỉ do 01 nhà phân tích chấm điểm trên mọi chỉ tiêu
và viết báo cáo đánh giá quốc gia đó, gửi đến Ban đánh giá tại trụ sở chính ở Mỹ
sẽ xem xét, so sánh ở cấp độ khu vực và so với kết quả các năm trước để quyết định
công bố điểm số chính thức về 1 quốc gia. Do chỉ 01 nhà phân tích cho điểm và
viết báo cáo, ban đánh giá chủ yếu ở Mỹ, tiếp cận báo cáo trên thế giới quan và
giá trị Mỹ, báo cáo được đánh giá thiếu khách quan, khoa học và thiên kiến
FH đánh
giá Việt Nam năm 2020, 2021, 2022 là không có tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự
do ngôn luận, internet.
Từ xuất
phát điểm của FH và cách chấm điểm thiểu khoa học nêu trên, có thể nói, trong
nhiều phần đánh giá FH đã đánh tráo bản chất các sai phạm về tự do ngôn luận
trên mạng xã hội, biến đối tượng vi phạm pháp luật từ có sai phạm thành không
sai phạm. Họ thậm chí tán dương cho lối ứng xử thiếu văn hóa, phát ngôn sai
trái, lệch lạc trên mạng xã hội. Thực chất của âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
thù địch nhằm gây phần tâm trong cộng đồng xã hội, tạo ra sự hoài nghi về chủ
trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do ngôn
luận; từ đó, phủ nhận những thành tựu, nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền
con người trên không gian mạng; hạ thấp vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc
tế./.
ConversionConversion EmoticonEmoticon